Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.”
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.”
(Ý Kinh Pháp Hoa)
Không
gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi
những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày và sự chuyển giao
của đất trời để vẫy vùng sự sống. Vẻ đẹp của mùa xuân đã thêu dệt nên
những vần thơ rạng ngời hương sắc qua cảm hứng của kim cổ thi nhân; song
song với cảnh sắc huy hoàng đó,
các thi nhân cũng đã gợi lên vô vàn hình ảnh xuân thì của các cô gái
nõn nà hay những mảnh tình xuân phơi phới được thì thầm trong cõi thi ca
lung linh sắc màu xuân biếc.
Đi vào cõi thơ xuân, bên cạnh những thinh
sắc lộng lẫy của trời xuân, chúng ta có thể nhận ra sự nồng nàn, nỗi
khát khao vòi või và hụt hẫng khôn nguôi của các thi nhân
đối với xuân, bởi vì mùa xuân cứ đến và đi, hững hờ như nước xuôi cầu,
và thi nhân thì cứ muốn lưu giữ lại bóng dáng yêu
kiều thuở nao của nàng xuân vô
thường đó, rồi nức nở… Vượt lên trên những khát vọng về tình sắc mong
manh của xuân, các thiền sĩ đã tạo nên một cõi xuân thi với gam màu
riêng biệt qua bút pháp
thanh tao tiêu nhã và bằng cảm quan siêu
thoát trong đời sống bọt bèo hư ảo. Cứ mỗi mùa xuân về lật từng trang
thơ thiền, chúng ta có cảm tưởng như đang sống trong cõi xuân huyền
nhiệm, rưng rưng đâu đây hoa
vàng sắc biếc trong cuộc đời đầy giá buốt xa xăm.
Mở đầu tông phong trong cõi Thiền xuân này là bài thơ Cáo Tật Thị
Chúng nổi tiếng của Thiền sư Mãn Giác
(1052-1096)- vị cao tăng thời Lý. Bài thơ chỉ có vỏn vẹn ba mươi bốn chữ
trong sáu câu nhưng đã bao hàm toàn bộ tư tưởng tinh hoa của Thiền học
cũng như tính thể của nguồn thơ,
春去百花落 春到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅
Nếu vẻ đẹp của Đường thi là nỗi xuyến xao vời vợi về hai nàng xuân, một trở về một biền biệt như:
“Hoa đào (vẫn) cười cợt gió đông
Mà nay chẳng thấy bóng hồng nơi nao”
(Nhân
diện bất tri hà xứ khứ
Đào
hoa y cựu tiếu đông phong). (Đề
Đô Thành Nam Trang-Thôi Hộ )
thì
vẻ đẹp của Thiền thi trong thơ của Thiền sư Mãn Giác là linh thể bất
diệt ngay trong đêm tối diệt sinh, và được phát họa sinh động qua hai
câu
kết bằng một cành mai vàng
nở giữa đêm khuya trước khi xuân đã tàn hoa đã rụng nhưng nào ai hay
biết:
“Đừng nói xuân tàn hoa rụng hết
Đêm
qua sân trước một cành mai.
(Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.)
Mặc dầu chất xuân trong Thiền thi của Thiền sư Mãn Giác không tạo ra
nỗi khắc khoải mông lung
nghìn đời của nhân thế hoặc không muốn gây nên cảm giác chơi vơi cho
người yêu thơ, nhưng bài thơ này đã có một bước bộc phá mới và thôi thúc
chúng ta đi tìm sự bí ẩn đã tạo nên vẻ đẹp thanh thoát ly kỳ về nó. Bí
ẩn này có thể tạm thời được biết như là cành tâm xuân luôn hiện hữu
trong dòng đời buồn tẻ phù hư.
Có thể từ âm hưởng của cành mai Mãn Giác mà các thế hệ Thiền thi Việt nam về sau đều đã tạo nên những sắc phong của cõi tâm xuân
thay vì mô tả khung cảnh hữu tình của bướm hoa mây nước:
“Xuân sang hoa bướm khéo quen thì,
Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ,
Nên biết bướm hoa đều huyễn cả,
Thây hoa mặc bướm để lòng chi.”
Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ,
Nên biết bướm hoa đều huyễn cả,
Thây hoa mặc bướm để lòng chi.”
(Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu tiện ứng kỳ,
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp vấn tâm trì).(Giác Hải thiền sư)
Hoa điệp ưng tu tiện ứng kỳ,
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp vấn tâm trì).(Giác Hải thiền sư)
Với tư tưởng “nhậm vận” nên các Thiền sĩ chẳng thấy xuân còn hay mất
để rồi ôm ấp những hoài niệm hay mơ về một tiếng pháo xưa khi mùa xuân
qua đi:
“…Năm ba ngày nữa tin xuân đến,
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.”(Nguyễn Khuyến)
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.”(Nguyễn Khuyến)
Đối
với Thi nhân, sự xoay vần của mùa xuân và nỗi khát khao về nó đã bắc
nhịp cho thơ giao cảm được tiếng lòng của nhân thế; nhưng một lúc nào đó
nhà thơ bỗng cảm thấy ê hề với những khát ái bất tận của chính mình
trước sự hữu hạn của xác thân như một nghịch lý của tâm và cảnh:
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”(Hồ Xuân Hương)
Mảnh tình san sẻ tí con con.”(Hồ Xuân Hương)
Mảnh xuân vô thường kia cứ đi đi lại lại khiến cho tình đời thêm già nua
và tẻ nhạt, vì vậy nhà thơ cứ mãi ao ức níu kéo hương sắc của xuân với thời gian không bến đợi:
“Tôi
muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”(Vội Vàng-Xuân Diệu)
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”(Vội Vàng-Xuân Diệu)
Trong khi đó thiền nhân đã có được những phút giây tương
ngộ với mảnh chân xuân
trong thời gian vô cùng và ý thức về chiếc bóng choàng trên cái sinh
thức phiêu bồng vô hạn nên đâu có sắc màu để héo úa nhạt phai:
”bao thiên niên
kỷ, nhìn mây nước
giật mình, thấy bóng vẫn không phai..” (Lãng Mạn Khúc Du
Xuân-CS Liên Hoa)
Chiếc “bóng không
phai” là linh thể tối thượng không nhuốm sắc màu thời gian, không bị chi
phối bởi bốn mùa mưa nắng rồi cuống lên vì lo sợ ngày xuân vun
vút trôi qua “mau với chứ thời gian không đứng đợi.”
(Xuân diệu). Không vồn vã rượt bắt mùa xuân, Thiền thi phác họa nhãn
quan linh động với cái nhìn thiền quán về lẽ sắc-không khi mùa
xuân đến:
“Tuổi trẻ chưa tường rõ sắc - không
Xuân về hoa bướm rộn tơ lòng
Chúa Xuân nay bị ta khai phá
Chiếu trải giường thiền, ngắm cánh hồng."
(Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không
Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông Hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.) (Phật Hoàng Trần Nhân Tông)
Xuân về hoa bướm rộn tơ lòng
Chúa Xuân nay bị ta khai phá
Chiếu trải giường thiền, ngắm cánh hồng."
(Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không
Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông Hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.) (Phật Hoàng Trần Nhân Tông)
Trên căn bản quán chiếu, thơ thiền không bị lôi kéo vào thiên kiến
vui buồn thương tiếc của thế nhân với những nỗi chập chờn đơn lạnh nghìn
đời của nhân thế khi ngày xuân không bao giờ trở lại như Đông Hồ đã tâm
sự:
“Tưng bừng hoa nở thắm ngày xuân
Rực rỡ lòng cô hoa ái ân…
Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi ngậm
Cô nhớ ngày xuân nhớ tuổi thơ.” (Cô gái xuân)
Rực rỡ lòng cô hoa ái ân…
Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi ngậm
Cô nhớ ngày xuân nhớ tuổi thơ.” (Cô gái xuân)
Tuy nhiên một vài thi nhân tài hoa của làng thơ cũng không kém phần kiêu hãnh và ngang tàng khi ghép rượu đề thơ để tạm quên đi ngày tháng đất trời, để không còn bị câu thúc trước sự tàn nhẫn của thời gian đã làm đau thương trái tim của họ. Như Lý Bạch đã thổn thức: “Đời chỉ là giấc mộng lớn, cớ gì mà bận lòng, cho nên ta uống rượu say lúy túy, khi tỉnh rượu mới hay ra xuân về, chim hót trong cành hoa, chẳng biết hôm nay là ngày nào, rồi những cảm xúc cất lên, ta nghiêng bình rượu trước cảnh sắc huy hoàng, và hát khúc chờ trăng sáng, khi khúc ca vừa dứt thì tình cũng đã vừa quên.”
(Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
Sở dĩ chung nhật túy
Đối nhiên ngọa tiền doanh
Giác lai miện đình tiền
Nhất điểu hoa gian minh
Tá vấn thử hà nhật?
Xuân phong ngữ lưu oanh
Cảm chi dục thám tức
Đối chi hoàn tự khuynh
Hạo ca đãi minh nguyệt
Khúc tận dĩ vong tình.) (Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn chí)
Hồ vi lao kỳ sinh
Sở dĩ chung nhật túy
Đối nhiên ngọa tiền doanh
Giác lai miện đình tiền
Nhất điểu hoa gian minh
Tá vấn thử hà nhật?
Xuân phong ngữ lưu oanh
Cảm chi dục thám tức
Đối chi hoàn tự khuynh
Hạo ca đãi minh nguyệt
Khúc tận dĩ vong tình.) (Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn chí)
Tại sao những nhà thơ lớn đôi khi phải dùng đến men rượu như để thách
thức và vượt qua những khổ lụy của đời thường? phải chăng trong cơn men
say người ta mới cảm giác rằng trường đời là mộng mị? cho nên để đạt
được tâm trạng sảng khoái này
nhà thơ phải mượn bình rượu như một thú tiêu dao siêu thái trong cõi
“siêu phàm
nhập thánh?”
”Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.” (Nguyễn Công Trứ)
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.” (Nguyễn Công Trứ)
Trong cõi Thiền, vạn vật là đối tượng để cho người nhập đạo quán chiếu và trãi nghiệm; trong đời sống thường nhật cũng như
trong thi ca, thiền
không tạo
ra những
cảm
giác khắc
khoải
chập
chờn
giữa mộng và thực thay vì nó điều phối sắc màu mùa xuân qua cái nhìn về thực tại một cách sinh động và hài hòa:
Trúc
biếc hoa vàng đâu
cảnh khác
Trăng
trong mây bạc hiện toàn chân.
(Thúy
trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch
vân minh nguyệt
lộ
toàn chân.) (Thiền Lão Thiền Sư)
Hay
"Trùng
dương Cúc nở dưới rào
Trên
cành Oanh hót thanh tao dịu dàng." (Thiền sư viên Chiếu)
Xa hơn, thơ thiền vượt thoát yếu tố của định luật nhị nguyên được
giới hạn giữa người và cảnh, giữa tâm và vật, giữa một và hai …: Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả, ta biết xuân nhau có
một thì.(Cô Lái
Đò-Nguyễn Bính). Thiền thi tiêu diêu trong vẻ đẹp thanh thoát của đóa
xuân vô tướng mà nhà thơ đã cảm nghiệm và tương phùng trong cái nhìn vô
sai biệt:
"Người
ở
trên lầu hoa dưới
sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông Hồn nhiên người với hoa vô biệt Một đóa hoa vàng chợt nở tung" (Hoa tại trung đình, nhân tại lâu Phần hương độc tọa tự vong ưu Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.) (Thiền sư Huyền Quang-bản dịch của Nguyễn Lang)
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông Hồn nhiên người với hoa vô biệt Một đóa hoa vàng chợt nở tung" (Hoa tại trung đình, nhân tại lâu Phần hương độc tọa tự vong ưu Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.) (Thiền sư Huyền Quang-bản dịch của Nguyễn Lang)
Người với hoa không là hai, chỉ có sự nở tung của cành hoa hay là
thực tướng nghìn đời hiển hiện trong giây phút thực tại mầu nhiệm; với
lối diễn đạt này giúp cho người đọc thôi đi việc đuổi hình bắt bóng thay
vì trực nhận ảo giác của chính mình
trên cành xuân đó:
“ Hoa pháo đỏ thềm này
Mơ xuân ở bờ kia
Đôi bờ đều như mộng
Xuân
- Thu ở đâu kìa?” (Xuân cảm-Vĩnh Hảo)
Vì quá nao nức nên thi nhân không
thể nhận diện được mùa xuân hiện
hữu ngay tại đây trong phút giây hiện tại và không thể sống trọn vẹn ngay cả trong cuộc mộng du của chính mình:
“Vì say sưa quá nên tôi đã
Đem
đổ hồn xuân xuống suối hồ!” (Xuân-Nguyễn Bính)
Mùa xuân trong thơ thiền không có pha chế những sắc màu man mác,
thương sầu lẫn lộn để thôi miên người đọc cùng thổn thức nhịp đập chung
của trái tim nhân thế hoặc “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây,” nhưng nó
vẽ nên một phong thái dung
nhiếp thực tại giữa người và cảnh hay đúng hơn là bản chất “tuỳ duyên”
trong bối cảnh không-thời gian khác biệt: xuân nương du thảo địa, hạ
hưởng lạc hạ kỳ…” Với điểm nhắm vào thực tại, Thiền thi dù vô tình hay
cố ý cũng đã quên đi sắc màu thời gian quá khứ:
Sống
ngày nay biết ngày nay
Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì!
(Đản tri kim nhật nguyệt Thùy thức cựu Xuân Thu.) (Thiền Lão Thiền Sư)
Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì!
(Đản tri kim nhật nguyệt Thùy thức cựu Xuân Thu.) (Thiền Lão Thiền Sư)
Vì theo nhãn
quan của thiền, quá khứ
hay tương lai đều
nằm
trong khoảnh khắc
ý thức;
cuộc
đời
khác gì giấc mộng
Trang Sinh, cho nên ý niệm về
thời
gian xa và gần trước hay sau cũng
chỉ
là ảo
tưởng phủ
choàng ảo
tưởng; cho nên tự
nghìn đời
xuân chẳng
có gì xa xôi cả:
“Ta
gọi
xuân về,
xuân bướm bay
Trang Sinh nằm mộng biết bao ngày Thời gian dù có nghìn năm nữa
Xuân đến lâu rồi ai có hay.”(Gọi Xuân Về-Huyền Không)
Trang Sinh nằm mộng biết bao ngày Thời gian dù có nghìn năm nữa
Xuân đến lâu rồi ai có hay.”(Gọi Xuân Về-Huyền Không)
Hay nói theo
cách của
thi sĩ Bùi Giáng:
“Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.”(Chào Nguyên Xuân)
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.”(Chào Nguyên Xuân)
Với lập trường “phản bổn hoàn nguyên” và tư tưởng lạc quan, các Thiền
sĩ đã thổi chất xuân vào hồn thi ca Việt Nam một cách siêu thái. Ý niệm
về bản thể tuyệt đối được lồng trên sắc màu xuân cảnh và tạo nên sự hài
hòa giữa chủ thể và đối tượng qua nội dung và cấu trúc của mạch thơ.
Chu du trong
cõi thơ thiền, người mới vừa nhập môn có cảm thái bàng hoàng như chợt
nghe tiếng pháo xuân nổ vang giữa mộng và thực, giữa tỉnh và say, nhưng
sau phút giây ngơ ngác đó không ai không một lần ước ao tương ngộ cảnh
giới bí huyền với lãng đãng đâu
đây cành mai nở vàng trong đêm tối khi xuân đã âm thầm hờ hững ra đi.