Hôm
nay tôi được yêu cầu trình bày học thuyết về sự thể nghiệm sau cái
chết, tại Tây Tạng điều này được biết như là thức Trung ấm. Tôi cho rằng
đây là vấn đề có liên quan đến vài học thuyết đặc biệt của đạo Phật.
Trước tiên, tôi muốn đưa vấn đề
này vào trong phối cảnh của chính nó. Đức Thích Tôn, vì mục đích truyền
đạt giáo pháp tuệ giác cho chúng sinh ngài đã thành lập vô số học
thuyết. Tám mươi bốn nghìn pháp môn được xuất phát từ đức Phật và tất cả
tám mươi bốn nghìn học thuyết này không ngoài bài pháp đầu tiên của đức
Phật, đó là giáo pháp được biết như Bốn Sự thực. Bốn sự thực đó là: Sự
thực về Khổ đau, sự thực về Nguyên nhân khổ đau, sự thực về Niết bàn và
sự thực về Con đường dẫn đến Niết bàn. Bốn chân lý này là tinh túy của
toàn bộ lời dạy, học thuyết và sự thể hiện của giáo pháp bất diệt đã
được trao truyền từ Đức Thế tôn. Nói một cách ngắn gọn…thứ nhất, sự thực
về Khổ đau là y cứ vào sự hiện hữu bất như ý, âu lo, sự sinh diệt vô
thường về tâm và vật lý. Tất cả nỗi khổ đau này tương ứng với nhận thức
sai lầm về bản ngã. Khi tư tưởng bất giác rơi vào những sai lầm về nhận
thức đối với bản ngã và tác động trên ý thức, tâm trở nên bị chi phối
bởi tư tưởng nhiễm ô, chẳng hạn như tham lam, giận giữ và ảo tưởng. Với
những tư tưởng bị nhiễm ô này nên chúng sinh tạo nghiệp. Những tác
nghiệp này dẫn dắt chúng sinh tái sinh vào cảnh giới này hoặc cảnh giới
khác trong vòng luân hồi bất tận. Tóm lại sự diễn tả về hai sự thực khổ
đau mà chúng sinh thọ nhận cũng như nguyên nhân của khổ đau được bắt
nguồn từ nhận thức sai lầm về bản ngã, trong khi sự thực bản ngã chẳng
có gì cả…không có chủ thể nhận thức…tương ứng với bản ngã là sự vô minh.
Đức Phật đã dạy tiếp về con đường dẫn đến tự do. Con đường này bao gồm
sự tu tập của thân, miệng và ý với hành động tốt để dẫn đến sự giải
thoát đích thực không chỉ dựa trên những kinh nghiệm về đau khổ mà còn
là những nguyên nhân của khổ đau. Con đường dẫn đến chân lý về sự đoạn
tận khổ đau hay Niết bàn (Nirvana), đó là sự giải thoát từ toàn bộ đau
khổ và nguyên nhân của nó.
Giáo pháp về thức Trung ấm cũng tưõng quan với Bốn sự thực mà Đức
Phật đã giảng dạy. Những nỗi lo lắng và hoảng sợ khác nhau xuất hiện,
những kinh nghiệm hão huyền mà tâm thức chạm phải với tâm trạng sau khi
chết có thể chứng minh rằng điều này tương ứng với sự thực đầu tiên của
Bốn sư thực, sự thực về Đau khổ. Những hiện hữu và sự tái hiện mà tư
tưởng đã trãi qua có thể xác minh rằng chúng nó được hình thành từ tâm ô
nhiễm, chẳng hạn như sự tham muốn, giận giữ, mê mờ, kiêu mạn và chấp
trước cũng như bắt nguồn từ những hành động của nghiệp, thiện, ác và vô
ký.
Với cách này chúng nó tương ứng với sự thực thứ hai, chân lý về
Nguyên nhân khổ đau. Nhớ rằng, sự đau khổ đối với trãi nghiệm của thức
Trung ấm cũng phát triển từ nghiệp, hành động của nghiệp và tâm ô nhiễm.
Vì vậy chúng nó tương ứng với Sự thực về Nguyên nhân khổ đau. Nếu ai đủ
may mắn có được sự hướng dẫn đúng đối với
Thiền định, sự chuẩn bị và thực tập đối với việc kinh nghiệm sau cái
chết: sự học hỏi, thiền định, chuẩn bị và thực tập này có thể tương ứng
với Sự thực thứ ba, Sự thực về con đýờng (phương pháp) diệt khổ. Cuối
cùng, nếu ai đó cũng có khả năng thực hành có hiệu quả với thức Trung
ấm, nhận ra những gì họ huân tập và biểu hiện, đưa họ đến con đường đạt
đạo (bằng sự hiểu biết đối với tự ngã), sự tỉnh giác này tương ứng với
Thọ dụng thân (Sambhogakaya), người ta có thể đạt được Phật tính
(Buhhdahood) ngay trong sự thể nghiệm Bardo. Sự ngộ nhập Phật tính trong
trạng thái thức Trung ấm tương ứng với Sự thực cuối cùng, Sự thực về
Diệt đế hay Giải thoát từ nỗi khổ đau.
Bây giờ chúng ta thử nên tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử của giáo pháp
đặc biệt này, những giáo lý đýợc biết đến với học thuyết của thức Trung
ấm (Bardo).
Chúng ta biết rằng có nhiều sự nghiên cứu về trạng thái Trung ấm, tác
phẩm Atarabhave (Thân Trung Ấm) được viết bằng chữ Sanskrit, được thấy
trong nhiều kinh sách Ấn Độ. Chúng ta có thể tìm thấy đề tài này trong A
tỳ Đạt Ma luận (Abhidharma), Tập hợp luận tạng (Abhidharmasamuccaya)
cũng như trong vị trí nào đó của mật
tông, và thuộc về sự truyền bá vào thời kỳ sau, chẳng hạn như học thuyết
Chakrasamvara, Mật tông Hevajra và các tông phái khác. Nhưng nói chung
chúng ta có thể biết rằng giáo lý về thức Trung ấm (Bardo) được chia
thành hai truyền thống Tây Tạng rõ nét: Chúng nó thuộc về sự truyền
thừa Đầu tiên hoặc là Nyingma, và sự truyền thừa trong Thời kỳ sau.
Những giáo lý về thức Trung ấm cũng thay đổi, như vài luận sư nói về sáu
trạng thái Trung ấm, các vị khác nói có bốn Trung ấm hoặc ba Trung ấm.
Chẳng hạn như Jetsun Milarepa nói về sáu trạng thái Trung ấm. Tlis nổi
tiếng với các học giả phương tây về cuốn the Tibetan Book of the Dead
Tôi nghĩ rằng quyển Tạng Thư Chết (Tibetan Book of the Dead) đã đạt
được mức độ nổi tiếng nào đó đối với Phật tử phương Tây. Nó y cứ trên
truyền thống Nyingma và tương tự như truyền thống Kagyu khác là dựa trên
một tạng thư được viết bởi Tashi Tseringma, một Đại sư Du Già. Cả hai
quyển sách này đều nói về sáu trạng
thái Trung ấm. Tuy nhiên sáu trạng thái mà cả hai đã diễn tả được rút ra
từ bốn trạng thái căn bản của Trung ấm được trình bày trong kinh điển
Mật tông. Bốn trạng thái này là: Sinh xứ Trung ấm (the Birth place
Bardo),Tử Nghiệm Trung ấm ( Bardo of the death experience), Thực thể
Trung ấm ( the reality Bardo) và Thành vị Trung ấm ( bardo of becoming),
thức này cũng được gọi là Nghiệp dẫn Trung ấm (the Bardo of karmic
propensities). Trong Tạng Thư Chết đã được dịch sang Anh ngữ và những
sách khác của Tashi Tseringma có thêm hai thức Trung ấm khác gọi là Mộng
Trung ấm (the dream Bardo- Trung ấm trong giấc mộng) và Định Trung ấm
(Bardo of meditative absorption- Trung ấm trong trạng thái Thiền định).
Hai thức Trung Ấm này, như chúng tôi nói, có thể được thêm vào ở bốn
thức trên.
Nguồn gốc của từ Bardo (thức Trung ấm) có ý nghĩa là khoảng cách giữa
hai điểm. Tựu trung khi chúng ta nói về từ Bardo, chúng ta suy nghĩ về
sự liên quan đến trạng thái thức tâm tìm kiếm chính nó giữa sống và
chết. Sự thực chúng ta là, ngay bây giờ, trong đời sống hiện tại cũng
bao gồm trong thức Trung ấm. Chúng ta đang chịu chi phối bởi thức Trung
Ấm về sự huân tập hoặc khoảng giữa cái sinh
sắp mất và cái chết sẽ đến. Đây là Sinh xứ Trung ấm. Nhiều người có thể
không biết được điều này… nó không phải là một cách nhìn thông thường
lắm ở trong đời sống hiện tại.
Chẳng có gì ngạc nhiên khi chúng ta không nhận ra đời sống hiện tại
như một thân Trung ấm…rốt cuộc chúng ta là những người với những tập
quán tin tưởng rất rắn chắc trong một bản ngã trong khi sự thực không có
tự ngã tồn tại, và trong mọi cái thấy tựa
hồ như thực chất khi chúng nó không là. Vì vậy thật ngạc nhiên biết bao
khi chúng ta không nhận ra đời sống con người hiện tại như là bộ phận
tồn tại của chu kỳ thức Trung ấm. Bây giờ, chúng ta biết rằng đây là một
vấn đề, chúng ta nên cân nhắc những gì phải làm với nó. Những gì thực
hành thích đáng ngay thức tâm Trung ấm này? Đầu tiên chúng ta nên tinh
tấn trong việc tạo ra nhiều cơ hội. Chúng ta có thể làm điều này bằng
việc nghiên cứu giáo pháp, xuyên qua việc tiếp nhận sự hướng dẫn từ
những bậc thầy có kinh nghiệm, theo đuổi những năng lực của mật pháp, sự
chỉ đạo và hướng dẫn thiền tập (cũng được hướng dẫn bởi những bậc thầy
có kinh nghiệm), và tâm chúng ta rèn luyện không ngừng trong chánh niệm
và nhớ rằng “đây là những đạo sư Phật giáo mà tôi đã nghe. Đây là những
sự hướng dẫn mà những vị thầy của tôi đã cho tôi sự thiền định. Đây là
vị đạo sư tin tuởng của tôi. Đây là lời giáo huấn của ông ta. Đây là
Yidam của tôi (vị bồ tát tôi đã chọn) và tôi đang quán chiếu về ngài.”
Xa hơn chúng ta nên phát triển chính mình bằng cách luôn luôn nhắc nhở
chính mình rằng tất cả âm thanh nên được nghe như câu thần chú, tất cả ý
nghĩ phát khởi (tốt, xấu và vô ký) nên được thấy như sự biểu hiện của
tuệ giác siêu việt, và tất cả hình thù cần phải được quan sát như hình
thái của tâm linh. Nếu chúng ta tôi luyện chính mình trong những thực
tập này suốt cả đời, những phương cách được chuẩn bị cho thức Thành vị
Trung ấm và thức Tử nghiệm Trung ấm là điều rất tốt. Cũng vậy, cơ hội
nhận diện và hiểu biết những gì nên được làm trước đối với thức Trung Ấm
và rồi điều này nó sẽ trực tiếp đi theo cái chết, trong ánh sáng trong
suốt của thức Trung ấm ấy, có nhiều ánh sang tuyệt diệu phát ra, thêm
nữa, ngay cả việc người ta tìm lại chính mình trong thức Thành vị Trung
Ấm (bardo of Becoming), cơ hội nhận biết tình thế và phối hợp với nó
được phát triển ở mức cao hơn.
Thức Trung Ấm thứ hai đó là Tử Nghiệm (death experience). Nó cũng
được gọi là Bất lạc thức (unhappy Bardo), bởi vì khi cái chết xuất hiện
người ta rất buồn bã lúc từ bỏ mọi thứ của
thế giới này trong tâm trạng vô cùng bất an, nỗi hoảng sợ lớn lao cũng
như những niệm khởi bất định, bồn chồn và lo lắng với những người mà
trong đời sống không có cơ hội tu tập và tạo nhiều việc không tốt. Tuy
nhiên với những người đã hiến dâng đời mình với những thiện nghiệp khi
đối diện với giai đoạn này người ta không sợ hãi lắm. Trái lại những tâm
lý tội lỗi sẽ được phơi bày, thí dụ, những vị thần phẫn nộ và ma quỷ
hung dữ xuất hiện, một tư tưởng thiện sẽ tìm đến chào đón chính mình
bằng các thiện nghiệp biểu hiện qua những vị thần giám hộ (Yidam) hoặc
bảo hộ của người đó trong những khia cạnh tốt. Nó sẽ là lúc vui mừng
nhất…hăng hái nhất đối với những người ấy. Nhưng tiến trình chết chính
nó biến đổi khi sự sống tách khỏi xác thân vật lý. Có bốn yếu tố từ cơ
thể con người xảy ra. Lúc chết, các nhân tố của đất, nước, lửa và không
khí bắt đầu tan vào trong cái khác, trong lúc nầy thức Trung ấm xuất
hiện với những ý thức chủ quan kinh qua sự trãi nghiệm về cái chết.
Cái chết, thường lệ được kèm theo sư suy
nhược, đau đớn và không có sự giúp đỡ để kiểm tra bịnh tình bằng thuốc
men hoặc cầu nguyện hoặc bất kỳ ý nghĩa nào khác.Và nó cũng đi cùng với
sự lo âu, bối rối và nỗi trắc ẩn lớn lao. Vì những lý do này những trãi
nghiệm của đương sự dường như bị dẫn dắt bởi những hình dáng ghê sợ và
những âm thanh rùng rợn, một âm thanh ồn náo trong thực tế vừa được
nghe, cuối cùng nó tắt đi và trở nên im ắng trong khoảng thời gian ngắn.
Thông thường đây là cách mà nó xuất hiện đối với các tình trạng không
được chuẩn bị.
Như chúng tôi đã trình bày, những người có sự chuẩn bị đối với thức
Trung ấm họ sẽ biết cách nhận diện những ảo ảnh này khi chúng xuất hiện
và có ít nhiều sự sẵng sàng. Ở đây chúng ta có thể thấy giá trị lớn lao
của sự chuẩn bị đó bằng thiền tập và sự hiểu
biết như sự dự bị đối với Sinh Xứ Trung ấm (birth place Bardo) trong
việc hỗ trợ sự tỉnh giác của người đó với sự trãi nghiệm khi nó vừa phát
khởi.
Tuy nhiên tiến trình chết có thể xuất hiện một cách chủ quan, theo
quan điểm Mật tông, những gì xảy ra trong giai đoạn này là sắc tố đỏ và
sắc tố trắng, chúng được chứa đựng bên trong thể xác con người và hợp
nhất hoặc đi cùng nhau. Sắc tố đỏ có được
là từ người mẹ và sắc tố trắng là từ người cha. Sắc tố đỏ được cho là
qui tụ trong vùng của rốn, trong khi sắc tố trắng được tìm thấy ở đỉnh
đầu. Trong tiến trình chết, khi thần thức bắt đầu rời khỏi thân xác, sắc
tố đỏ bắt đầu bay lên từ rún hướng đến đỉnh đầu. Khi điều này xảy ra,
trung ấm có cảm giác mọi thứ như thể là màu hồng hoặc là mặc trời đang
lấp lánh. Người nào cảm quan với màu đỏ thì mọi thứ dường như nhuốm đỏ.
Khi sắc tố trắng bắt đầu đi xuống từ đỉnh đầu đến trái tim, thức ấm cảm
giác giống như mọi thứ là màu trắng hoặc như thể ánh trăng lấp lánh. Hai
tiến trình này được gọi là lằn đỏ và lằn trắng. Khi hai lằn này gặp nhau
ở vùng trái tim chúng nó được gọi là sự ngất lịm (blackout), bởi vì
ở đây hai sắc tố đã đụng nhau và hợp nhất nên người ta đã mất đi ý thức
và rơi vào tình trạng ngất lịm. Ngay lúc sự hợp nhất của chúng, tất cả
tư tưởng, sự quyến luyến, bất bình, lừa dối, tham lam, giận giữ và si mê
đã bị ngừng trong một lúc. Rồi người ta nhập vào trong thân Trung ấm kế
tiếp, thân trung ấm với ánh sáng trong suốt của thực thể. Nơi đây thần
thức cảm nhận về ánh sáng trong suốt của thực thể, điều này cũng được
gọi là căn bổn thực thể. Những ai không có sự chuẩn bị thì không nhận ra
nó bởi vì thức ấm rơi vào trạng thái bất giác một cách trực tiếp. Với
một vị tu thiền tốt người đã thực hành một thời gian dài trong chánh
định, tuy nhiên kinh nghiệm này là một điều rất tốt, nếu ông ta nhận ra
ánh sáng trong suốt của thực thể của nó, ông ta tức khắc trực ngộ được
Phật tính. Nhưng nếu một ai đó muốn vượt qua ảo giác hoặc muốn chuẩn bị
đầy đủ đối với kinh nghiệm ánh sáng trong suốt này, bắt đầu nhận ra
trạng thái này với những gì nó là, y sẽ đi vào trong Trung ấm thứ ba:
thành vị Trung ấm (Bardo of becoming-trung ấm thuộc về sự trở thành),
trạng thái này cũng được gọi là Nghiệp dẫn Trung ấm (Bardo of karmic
propensities).
Hầu hết mọi ngưòi bất thình lình bị đánh
thức, rồi sau đó họ trở nên rõ biết với những gì hiện hữu như đã nói ở
trong Book of the Dead. Những hình ảnh xuất hiện của nhiều vị thần khác
nhau nầy, như thần Herukas trong dáng vẻ phẫn nộ. Những dáng vẻ phẫn nộ
của họ là dễ làm khiếp đảm và rất là khó khăn thật sự đối với lãnh vực
của tri giác để nhận diện nó với những gì chúng nó là, hãy tự có can đảm
để cầu nguyện cho họ. Họ vô cùng hung tợn và ghê sợ. Một số họ cao như
núi và một số khác nhỏ như loài người. Những vị thần nầy với hình thù
phẫn nộ như thế rất khó khăn cho việc nhận diện họ như những sự phóng ra
hoặc chiếu rọi của tâm. Trạng thái này thường xảy ra và chúng sinh
chuyển tiếp cũng ở đây. Nếu người ta có thể nhận ra sự hiện hữu của quỉ
thần như những gì họ là, họ sẽ trực tiếp bước vào cõi phật thanh tịnh.
Dù cơ hội này đã không đến, bước kế tiếp họ sẽ nhận ra sự hiện diện của
các vị Bồ tát Dhyani khác nhau, đức Phật A Di Đà và các vị Phật khác.
Chư Phật xuất hiện với ánh sáng to lớn mà thân Trung ấm khó khăn lắm mới
nhìn lên được các ngài trong ánh sáng rực rỡ đó.
Cùng lúc đó những ánh sáng mờ ảo khác xuất hiện rất là dịu dàng,
nhiều vẻ quyến rũ và dễ nhìn hơn. Thông thường thức Trung ấm sẽ chọn
những ánh sáng có nhiều vẻ mờ ảo này và tránh xa ánh sáng rực rỡ của đức
Phật Dhyani. Nếu người đó làm như vậy, y
sẽ hướng đến sự tái sanh vào cõi thế gian. Hoặc giả nếu y hướng đến ánh
sáng lập lòe sắc trắng, y sẽ sanh vào cõi trời, hướng đến ánh sáng sắc
đen là kết quả của địa ngục, và ánh sáng sắc đỏ là cảnh giới của ngạ
quỉ.
Trong Tạng Thư Chết, ở phần Bardo Thodol
nhiều loại ma quỉ đã được chứng minh xuất hiện với ý thức vào ngày đầu
tiên, ngày thứ hai hoặc ngày thứ bảy; nó đề cập đến các loại ma quỉ hoặc
những hiện tượng khác nhau xuất hiện trong những ngày kế tiếp. Điều này
nên được hiểu rằng nó không nói đến ngày giờ của nhân gian nhưng đúng
hơn là thời gian của Thiền định. Đây có thể là đối với một vị tu Thiền
tốt, với độ dài thời gian đáng kể và thời gian có thể được xử dụng trong
những cấp độ khác nhau của quá trình. Tuy nhiên, nếu một người không có
được sự chuẩn bị cho kinh nghiệm, y có thể là ở trong giai đoạn quá
ngắn…quá ngắn, đúng hơn người ấy rất khó biết được những gì đã xảy ra.
Và bây giờ chúng ta đi vào trạng thái Trung ấm kế tiếp.
Ở thức Trung ấm thứ tư, Thành vị Trung ấm (the Bardo of becoming),
thức này được biết là ở trong trạng thái thân Trung ấm và đã bị tách rời
khỏi sự tồn tại và đồng nhất của thân thề vật lý trước kia. Thức Trung
ấm này đối mặt với những chiều hướng tái sanh. Những người không may tâm
ý bị chi phối bởi hành vi bất thiện và khuynh hýớng tội lỗi bấy giờ họ
đầy ắp những nỗi lo lắng và sợ hãi về
việc làm của họ ở trong trạng thái này và đối với nơi mà họ phải đi đến.
Lúc này họ hoàn toàn rõ ràng về những gì xảy ra mà họ đã từng làm nên.
Bấy giờ sự hối hận và xót xa lớn khởi lên đối với nghiệp xấu mà họ đã
tích lũy. Họ cảm giác chính mình bị tước đi tất cả sự mong ước và hoàn
toàn cô đơn trước những gì họ được biết và những ngọn gió nghiệp bây giờ
đang đẩy họ đi (do sức mạnh của những khuynh hướng nghiệp) đến một nơi
tái sanh hoặc một nơi nào khác.
Rồi họ bắt đầu thấy lờ mờ vài cảnh giới của sự tái sanh. Ví dụ, nếu y
cảm giác rằng mình bị cuốn hút vào trong một ngôi nhà bằng sắt, thì y
đang ở trong tình trạng tái sanh vào cõi địa ngục. Nếu y tưởng tượng
mình đi vào một lùm cây, một chòi tranh hoặc
một vài loại hoa cỏ cây cối, y đang đầu thai vào cảnh giới súc sanh. Nếu
y thấy những binh lính đang diễn hành và y nhập vào cuộc diễn hành đó, y
sẽ bị tái sanh vào những cảnh giới của A tu la. Nhưng nếu y thấy chính
mình đi vào một căn nhà xinh đẹp, chỗ tái sanh của y sẽ là những cõi
trời hoặc cõi người.
Sự trình bày trên rất là ngắn gọn về bốn
trạng thái thức Trung ấm. Cần nhấn mạnh rằng kinh nghiệm xuyên qua sự
kiện này sau khi chết rất là mãnh liệt, bởi vì nó không còn bị chướng
ngại bởi các chức năng giác quan, bởi những xao động của thế giới này,
hoặc bởi những quan niệm lừa dối của bản ngã trong một bối cảnh trần
gian. Tất cả những biến động này làm giảm bớt sự tỉnh táo đối với kinh
nghiệm mà chúng ta đã đi qua và thức Trung ấm xuất hiện rất rỡ ràng,
mãnh liệt và rõ rệt. Tâm thức đó cũng vậy, dĩ nhiên có sự tập trung cao
độ và nhạy cảm với toàn bộ tiến trình. Vì thế nếu người có nhiều lợi thế
về kinh nghiệm thiền tập để chuẩn bi cho Trung ấm, thì rất dễ dàng
hưởng ứng theo cách giới luật, thiền định và sự tập trung tư tưởng và
làm theo sự hướng dẫn mà họ đã học để chuẩn bị trước cho thân Trung ấm.
Vì vậy tại sao tôi có sự thực tập cả đời
và cố gắng tập trung vào điều này và truyền đạt về tinh thần đại bi Bồ
tát Quán Thế Âm. Tôi dạy điều này cho tất cả đệ tử của mình để cung cấp
sự chuẩn bị tốt nhất cho thân Trung ấm bằng hai tiến trình của chính nó:
tiến trình của sự tạo nên bao gồm công việc hiện thực, và tiến
trình hoàn thành hoặc nghiên cứu thiền định dựa trên sự tự nhiên của
tâm. Tôi cũng nhấn mạnh đến việc củng cố về sự thực hành thiền định hằng
ngày với sự thực tập vô định kỳ để nhớ đến mọi điều như sự biểu lộ của
thân xác, âm thinh và tư tưởng của bồ tát và tinh tấn hướng đến tất cả
kinh nghiệm của đời sống này,
Dù mọi vật hiện hữu trong trần gian nhưng trở thành con đường quán
chiếu của lòng từ bi quảng đại. Tôi cảm thấy tin tưởng hoàn toàn rằng
đây là phương pháp tốt nhất cho bốn trạng thái của thức Trung ấm. Tôi
tin tưởng sự phù hộ của đức Bồ tát Đại bi. Tôi rất vui mừng khi có cơ
hôi để chia xẻ với các bạn với sự phát họa ngắn gọn này về học thuyết
Trung ấm.
Question & Answer
Q1: Sự thiết thực của việc chuẩn bị cho
thức Trung ấm và ánh sáng trong suốt là gì? Nó là việc thực hành chủ yếu
mà chúng ta làm trong đời sống hay chỉ là những chỉ thị đặc trưng để
có thể nhớ như là chúng ta đang biết về thức Trung ấm.
A1: Nói chung, sự tu tập đã diễn tả trong bài giảng, chẳng hạn, sự
thiền tập dựa trên một vị bồ tát hoặc những pháp thiền khác là thiết
thực. Có những phương pháp đặc biệt, chẳng hạn như sáu pháp yogas đã
được dạy bởi Đức Sakya và cũng được tìm thấy trong những lời dạy của các
Đại sư Tây Tạng. Những pháp này là dream yoga (thiền trong giấc mộng),
pháp thiền để đạt đến sự tỉnh giác, hoặc Heat yoga v.v…có lợi ích và rất
tốt. Nếu bạn nhận được những sự hướng dẫn đó và cảm nhận sự quan trọng
trong những bài học hướng dẫn hợp
tấu cùng bạn, điều này rất tốt nếu bạn muốn thực hành.Nếu bạn không có
nhận được sự chỉ giáo và những bài học mà muốn biết nó, đó là vài điều
bạn có thể xét lại.
Q2: Trong Tạng Thư Chết đưa ra sự chỉ dạy đặc biệt đối với việc ứng
xử với những người vừa chết. Không được di
chuyển thân thể họ v.v…điều này không thể phù hợp trong những hoàn cảnh
mà người ta không được biết đến những giáo lý này, như những bịnh viện
tân thời. Vậy chúng ta phải làm như thế nào đối với người sắp chết hoặc
vừa chết?
A2: Nói chung niềm tin về trái thạng sau khi chết của Phật giáo Tây
Tạng có truyền thống không đụng tới thi thể trong khoảng vài ngày…tối đa
là ba đến bảy ngày.Bởi vì người Tây tạng không muốn lấy đi sự sống của
bất kỳ ai, họ muốn chắc ăn, đầu tiên thần thức sẽ không quay trở lại và
thể xác không hồi phục. Điều này đã xảy ra đối với các thiền sư như đã
được biết, lúc mà những gì xuất hiện với những sự khác lạ như cái chết,
họ đi vào trạng thái của đại định và rồi họ có thể quay về. Hoặc trong
tình trạng họ chưa chết hẳn. Cho nên đợi cho đến khi họ hoàn toàn rời
khỏi thể xác và đi vào thức Trung ấm, người Tây Tạng muốn chắc chắn
trong việc di chuyển thân xác.
Tuy nhiên đối với những người bình thường cái chết xảy ra đó là khi ý
thức trực tiếp rời khỏi thân xác
khi trút hơi thở cuối cùng. Đây là sự tách rời hoàn toàn của thân và
tâm, và sự liên quan không giống nhau mặc dầu theo thông lệ ba ngày thi
thể được giữ trong nhà.Trong thời gian làm lễ và tụng kinh là cầu nguyện
sự gia hộ cho người chết tỉnh giác. Tên của Đức Phật được đọc đi đọc lại
trước linh thể, lời kinh cứ lập đi lập lại để hướng dẫn người chết được
giải thoát hoặc đầu thai vào chỗ tốt.Với những cách này, những nỗ lực
được làm để giúp người chết xuyên qua những kinh nghiệm đánh động trạng
thái trong thức Trung ấm. Những nơi hoặc những hoàn cảnh có Phật tử hay
không, với lý do này, dĩ nhiên rất cần thiết. Tối thiểu từ quan điểm này
chúng ta ít hay nhiều cũng nên thực hành.
Q3: Những gì sễ xảy ra với người chết vì tai nạn và không có cơ hội để chuẩn bị cho thức Trung ấm?
A3: Bất kỳ ai đó bất thình lình bị đụng
xe rồi chết nhưng họ vẫn duy trì trạng huống mà họ đã chuẩn bị cho thức
Trung ấm thì họ sẽ không đánh mất chính mình, bất cứ lúc nào và trong mọi tình huống pháp hành đã phát triển.
Q4: Chúng ta có thể làm gì để có thể nhận ra kinh nghiệm ánh sáng trong suốt đó khi nó hiện ra?
A4: bạn nên tiếp tục thiền tập một cách
tinh cần và phải thực hành các phương pháp thiền hằng ngày, Như thế, bạn
sẽ tiến triển không ngăn ngại và sẽ chuẩn bị đủ cho sự xuất hiện của
ánh sang trong suốt đó.
* * * * * * * * *
Bài thuyết trình này được trình bày bởi ĐứcVenerable Dezhung
Rinpoche với sự thỉnh cầu của trung tâm Jetsun Sakya vào ngày 19 tháng11
năm 1977 tại Hàn Lâm Viện của Phật Giáo châu Mỹ, thành phố New York.
(Nguồn: Đạo Phật Ngày Nay)
No comments:
Post a Comment