Nghe
như vậy, một thời Đức Thế Tôn ở thành Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc
Viên; bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các thầy Tỳ Kheo, cha mẹ đối với con có ân
đức vĩ đại, bú mớm un đúc, dựa vào thời tiết để nuôi nấng con… và hình
hài con mới được trưởng thành.
Như có người vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ, trãi qua hàng nghìn
năm, gặp lúc cha mẹ tiểu tiện ở trên vai mà lòng không hề hờn giận mẹ
cha; người con này cũng chưa đền đáp đủ ân đức của cha mẹ.
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì
khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó,
nếu cha mẹ chưa có tiếp nhận giới thì khuyên nên thọ giới quy y để có
được nơi an ổn từ sư tiếp nhận giới, nếu cha mẹ không chịu nghe giáo
pháp thì khuyên bảo họ nên nghe để có được sự an lạc từ việc nghe đó,
nếu cha mẹ tham lam thì khuyên cha mẹ thực hành hạnh bố thí, vui vẻ
khuyến khích để cho cha mẹ có được nơi an ổn. Nếu cha mẹ không có trí
tuệ thì giúp cha mẹ học hỏi sáng tuệ, vui vẻ khuyến khích để họ có được
niềm an lạc.
Như vậy mà khuyên (cha mẹ) chánh tín đối với chư Như lai, bậc Chí
chơn đẳng chánh giác, bậc Minh hạnh thành, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Đạo pháp ngự, Thiên nhân sư, hiệu Phật Thế tôn.[1]
Và khuyên cha mẹ chánh tín đối với giáo pháp; tiếp nhận giáo pháp để
có được nơi an ổn , hiểu được các pháp thậm thâm, hiện tiền đạt được kết
quả từ ý nghĩa cao siêu đó; như thế là người trí, mới minh thông việc
(khuyên nhắc) này.
Lại khuyên cha mẹ chánh tín với Thánh chúng (Tăng bảo). Thánh chúng
của Như lai là bậc tu hành hoàn toàn thanh tịnh, là bậc mô phạm thường
hoà hợp, thành tựu các pháp, Thành tựu Giới, thành tựu Định, thành tựu
Trí tuệ, thành tựu Giải thoát, thành tựu Giải thoát tri kiến.[2]
Sở dĩ gọi là Thánh chúng vì các vị này đã và đang thành tựu Tứ song
Bát bối [3], đó là Như lai Thánh chúng, bậc xứng đáng tôn quý, nên tôn
phụng và kính ngưỡng, các vị Thánh chúng là ruộng phước Vô thượng cho
thế gian.
Như thế các người con (hiếu), nên khuyên cha mẹ mình thực hành (nếp sống) đạo từ bi.
Các thầy Tỳ kheo thì có hai đứa con, đó là con sinh (cho pháp) và con
dưỡng (tu pháp). Như thế Tỳ kheo có hai người con, cho nên chư Tỳ kheo
cần phải phát huy đứa con sinh của mình, nghĩa là miệng thường phát ra
lời Pháp vị, do đó các Tỳ kheo, nên như vậy mà tu tập.
Bấy giờ các thầy Tỳ kheo, nghe lời dạy của Đức Thế tôn rồi, vui vẻ vâng làm.
Lời bình:
“Thiên kinh vạn điển, hiếu hạnh vi tiên,” câu này ai cũng nằm
lòng, nhưng xem ra việc thực thi không phải là dễ dàng, nhất là trong
một xã hội thực dụng và những biến động cuồng loạn như ngày nay.
Xã hội Á đông ngày xưa thì lấy thước đo đạo đức chuẩn mẫu của con
người xuyên qua việc hiếu đạo đối với mẹ cha. Kinh Thi nhắc nhở: “Thương
thay cha mẹ, khổ cực nuôi ta, muốn báo thâm ân, như trời cao lồng
lộng…” (Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng
cực…) Không dừng lại ở đây, người Trung Quốc có câu châm ngôn: “Tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ”. Trong việc tề gia, người Trung Quốc đặt căn
bản sự tôn ti trật tự và hòa ái trong gia đình là yếu tố căn bản, đặc
biệt việc tôn kính cha mẹ là trên hết; người có hiếu đạo mới có thể làm
được việc chính trị, đứng đầu trăm họ. Lịch sử của Trung Quốc ghi nhận
rằng, thời đại an bình và huy hoàng nhất của Trung Quốc là thời vua Ngu
Thuấn và vua Văn Đế, trước khi ra làm vua hai vị minh quân này đã có
hiếu đạo, tôn phụng cha mẹ cảm động đến trời đất (Nhị Thập Tứ Hiếu).
Truyền thống hiếu đạo nghìn đời của văn hóa Việt nam thì được thể hiện qua câu ca dao bất hủ:
“Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Như thế mà hiểu, ơn cha cao vời vợi, tình mẹ thì vô cùng…và những
ai thực thi được hạnh hiếu đều được xã hội yêu mến và kính trọng dù kẻ
đó không biết được một chữ i tờ.
Theo quan điểm của Đức Thế Tôn, sự quí kính và phụng dưỡng hết
lòng đối với cha mẹ là chưa đủ để nói lên công lao trời biển của hai
đấng sinh thành, dù cho chúng ta có cõng cha mẹ hàng nghìn năm, hay như
cái hiếu của Giang Cách đời nhà Hán cõng mẹ lánh nạn về Hạ Bì thì cũng
không thấm vào đâu cả. Bởi vì dù cho chúng ta có lo “hơi ấm quạt nồng,”
giúp cho cha mẹ ăn ngon mặt sướng, cõng cha mẹ đi chơi suốt năm này
tháng nọ…vẫn không giúp cha mẹ thoát được nỗi khổ đau của thân xác như
già, bệnh… và nỗi khổ đau do vô minh nên luân chuyển trong vòng sinh tử
luân hồi bất tận.
Trong kinh Đức Thế Tôn thường dạy: “trong tất cả nỗi đau khổ thì
vô minh chính là sự đau khổ lớn nhất..” cho nên Đức Thế Tôn khuyên bảo
những người con hiếu rằng, nếu thương cha mẹ thực lòng, ngoài việc phụng
dưỡng ra chúng ta nên khuyến khích cha mẹ tiếp nhận giới, pháp và tu
tuệ, chỉ có cha mẹ mình đi đúng trên con đường tam vô lậu học như thế
mới có thể bước ra khỏi bóng tối đêm dài của vô minh, là nơi an ổn nhất,
nơi hạnh phúc nhất để nương tựa khi tuổi xế chiều.
Ngày nay ở các nước Tây phương (nhất là Hoa Kỳ) thì cha mẹ già yếu
là trọng trách của xã hội và của chính quyền hơn là người con. Văn hóa Á
châu cũng đã thay đổi, ở Việt Nam không ít cha mẹ già cả cảm thấy cô
đơn bèn đến chùa để tìm nguồn an ủi tâm hồn thì may ra mới năn nỉ được
con mình cùng đến chùa ! Phải chăng thời đại vật chất đã lấn át những
giá trị cao quý của tinh thần?
Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, người Phật tử muốn làm tròn hiếu đạo
phải có trách nhiệm giúp cha mẹ thoát khổ được vui; không phải là cái
vui mà Lão Lai đời Xuân Thu làm hề cho cha mẹ cười cả ngày, đây chỉ là
cái vui của nhất thời, mà là tạo điều kiện cho cha mẹ có được niềm an
vui lâu dài từ việc rủ bõ tham-sân-si khi quay về nương tựa tam bảo.
Khi còn trẻ mẹ cha chúng ta đã vắt kiệt tuổi xuân để lo cho con
cái, khi nhan sắc đến độ hoàng hôn, thân xác già nua thì họ có mặc cảm
vô dụng, đứng bên xó xỉnh cuộc đời…chúng ta không thể làm bất cứ điều gì
để khỏa lấp nỗi buồn mênh mang đó (!). Cách duy nhất là khuyên bảo cha
mẹ có lòng tin đối với Phật, Pháp và Tăng. Khi cha mẹ có chánh tín đối
với Phật, họ sẽ nhân ra được khả năng giác ngộ vốn có của mình. Khi cha
mẹ có chánh tín đối với Pháp, họ sẽ tìm thấy con đường tu tập để vượt
thoát sinh tử luân hồi và có được hạnh phúc chân thật. Khi cha mẹ có
chánh tín đối với Tăng, họ sẽ nhận ra được tánh giác thanh tịnh của
mình. Người Phật tử vâng lời Phật dạy mà khuyên bảo cha mẹ quay về Tam
bảo thì không còn hiếu hạnh nào hơn.
Đức Thế Tôn là một đặc trưng cụ thể của tấm gương hiếu hạnh này.
Sau khi thành đạo Ngài đã đem giáo pháp độ cho vua cha, trước lúc băng
hà nhờ tiếp nhận giáo pháp mà vua Tịnh Phạn chứng đắc Tu Đà Hoàn quả;
song song việc này Ngài lại lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp để độ cho
mẹ; và đặc biệt Ngài đã tiếp nhận Di mẫu và năm trăm nữ Xá Di của hoàng
tộc xuất gia và đều chứng đắc Thánh quả A La Hán.
Đối với Mạnh Tử thì “bất hiếu có ba, không con nối dõi là lớn
nhất” (bất hiếu hữu tam, vô hậu vị đại-Hiếu Kinh); khác với thế gian,
Đức Thế Tôn đặt nặng vấn đề giải quyết những nỗi đau khổ tinh thần cho
cha mẹ ngay khi cha mẹ còn sống “Phụ mẫu Tại đường như Phật tại thế”;
những người xuất gia là biểu tượng của lòng hiếu đạo, bởi vì họ không
ràng buộc bởi tình thương yêu đối với vợ (chồng) con, mục đích của hàng
Tăng bảo là “thượng cầu Phật đạo hạ hoá chúng sinh,” chúng sinh ở đây
trước hết là cha mẹ hiện đời, và sau đó là cha mẹ của nhiều đời; đó là ý
nghĩa cao cả nhất của hiếu đạo.
Thay vào đó Đức Thế Tôn xác nhận rằng, người xuất gia không phải
là kẻ “vô hậu,” mà mỗi thầy Tỳ Kheo đều có hai người con cần phải nuôi
nấng, đó là con sinh và con dưỡng. Con sinh: nghĩa là người xuất gia
phải biết sáng tạo, phải biết nói (viết, thể hiện) ra pháp vị để lợi lạc
hữu tình. Con dưỡng: nghĩa là người xuất gia phải tu tập giới (thiền)-
định-tuệ để nuôi dưỡng huệ mạng của mình. Hai người con mà Đức Thế Tôn
nói trong kinh sẽ tiếp nối giòng giống thánh làm cho Phật pháp cửu trụ
ta bà, chúng sinh (là cha mẹ thân bằng quyến thuộc của chúng ta nhiều
đời) nhờ đó mà được thấm nhuần mưa pháp an lạc; Như thế mới gọi là đền
đáp đầy đủ thâm ân cha mẹ.
________________________________________________
Chú giải:
[1] Mười Đức hiệu của Phật (Mục Tư Vấn-GNO):
1) Như Lai (S.Tathàgata), bậc nương vào Chân như (Như) mà đến (Lai)
và thành Chánh giác. Theo kinh Kim Cang, Như Lai có nghĩa là “Vô sở tùng
lai, diệc vô sở khứ”, không từ đâu đến và cũng chẳng về đâu, hàm ý từ
bản thể Chân như (hiện ra) và có mặt cùng khắp mọi nơi. Khi nói về mình,
Phật Thích Ca xưng là Như Lai.
2) Ứng Cúng (S.Arhat), bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời
và người. Ứng Cúng còn là một đức hiệu của các bậc thánh A-la-hán (phần
kinh văn thiếu.)
3) Chánh Biến Tri (S.Samyak-sambuddha), bậc có khả năng hiểu biết
(Tri) đúng đắn (Chánh) và cùng khắp (Biến) tất cả các pháp (phần này
trong kinh văn gọi là Chí chơn đẳng chánh giác.)
4) Minh Hạnh Túc (S.Vidyà-carana-sampanna), bậc trí tuệ và phước đức
vẹn toàn. Minh là trí tuệ (Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận
minh). Hạnh là phước đức, tức các hạnh nghiệp đều toàn thiện, viên mãn.
Túc nghĩa là đầy đủ, vẹn toàn (Kinh văn là Minh hạnh thành.)
5) Thiện Thệ (S.Sugata), bậc “khéo léo vượt qua mọi chướng ngại và ra
đi một cách tốt đẹp”, nghĩa là sau khi chứng đạo dùng Nhất thiết trí
hóa độ chúng sanh, thực hành Bát thánh đạo rồi an trú Niết-bàn.
6) Thế Gian Giải (S.Loka-vid), bậc thấu hiểu và rõ biết (Giải) tất cả
từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai (Thế) ở trong mười phương thế giới
(Gian).
7) Vô Thượng Sĩ (S.Anuttara), bậc tối tôn tối thượng, không ai có thể hơn được.
8) Điều Ngự Trượng Phu (S. Purusa-damya-sàrathi), bậc có khả năng
dùng các phương tiện thiện xảo để điều phục, nhiếp hóa, dẫn dắt (Điều
Ngự) người tu hành (Trượng Phu) khiến họ thành tựu giải thoát, chứng đắc
Niết-bàn (Trong phần kinh văn là Đạo pháp ngự.)
9) Thiên Nhơn Sư (S.Sàstà deva-manusyànàm), bậc thầy của trời và người.
10) Phật-Thế Tôn (S.Buddha-Bhagavat), bậc giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn và được thế gian đều tôn kính.
[2] Là năm phần hương dụ cho 5 phần Pháp thân (Phật Quang Từ Điển):
1) Giới thân (Sila-skandha); còn gọi là Giới uẩn, Giới chúng, Giới
phẩm, tức là thân ngữ nghiệp vô lậu. Khi Thành tựu giới thì ba nghiệp
của thân miệng ý đều thanh tịnh.
2) Định hương (Samàdhi-skandha); còn gọi Định uẩn, Định chúng, Định
phẩm. Tức là 3 Tam-muội: Không, Vô nguyện, Vô tướng. Thành tựu Định
nghĩa là thể nhập vào trạng thái 3 không, xả ly tất cả sự chấp thủ vọng
niệm.
3) Tuệ thân (Prajnà-skandha); còn gọi là Huệ uẩn, Huệ phẩm, tức chánh
kiến, chánh tri. Thành tựu Tuệ là đạt được sự thấy và hiểu biết đúng
đắn; thông đạt tất cả pháp tánh
4) Giải thoát thân (Vimukti-skandha); còn gọi: Giải thoát uẩn, Giải
thoát chúng, Giải thoát phẩm, là thắng giải tương ưng với chánh tri
kiến. Thành tựu Giải thoát là thành tựu tự thể của Như lai, xa lìa những
sự trói buộc, giải thoát tất cả những sự trói buộc.
5) Giải thoát tri kiến (Vimukti-jnàna-darsana-skandha); còn gọi: Giải
thoát sở kiến thân, Giải thoát tri kiến uẩn, Giải thoát tri kiến chúng,
Giải thoát tri kiến phẩm. Thành tựu Giải thoát tri kiến chứng đạt tận
trí, vô sanh, chứng biết tự thể xưa nay vô nhiễm, thật sự giải thoát.
[3] Đã thành A la hán thì được gọi là A la hán quả, đang tu A la hán
thì được gọi là A la hán hướng, đã thành A na hàm thì được gọi là A na
hàm quả, đang tu A na hàm thì được gọi là A na hàm hướng, đã thành Tư đà
hàm thì được gọi là Tư đà hàm quả, đang tu Tư đà hàm thì được gọi là Tư
đà hàm hướng, đã thành Tu đà hoàn thì được gọi là Tu đà hoàn quả, đang
tu Tu đà hoàn thì được gọi là Tu đà hoàn hướng. Những bậc đã thành tựu
bốn quả và đang tu bốn quả được gọi là tám bậc, chia làm bốn đôi gọi là
tứ song bát bối (cattari purisayugani attha purisapuggala.)
No comments:
Post a Comment