Phật giáo là một tôn giáocó
nhiều quan hệ đối với đau khổ. Nó không bao giờ thực sự
ngừng nghiên cứu nỗi đau khổ của chính mình và
người khác. Điều này hình thành tiêu điểm tập trung của tôn giáo, sự thực hành và triết lý của nó. Triết
lý này khuyến khích khám phá về đau khổ, nguồn gốc của đau khổ. Mặc dù tất
cả sự lôi cuốn đều có thể được giảm xuống với sự nhàm chán dựa trên những ảo tưởng
về sự thật của cái tôi ham muốn những điều nào đó và không thích
đối
với những gì khác, nhưng điều này thì không phải đơn thuần hoặc một điểm dễ dàng nắm bắt một
cách nhanh chóng:
"Và các
người, những người ẩn mình đằng sau một bức tường ảo
tưởng. Không bao giờ thoáng
nhìn sự thật, đến lúc quá muộn màng, khi chúng
đã trôi qua."
[George Harrison, Within you without you, 1967]
"Làm sao đối với sự hiện hữu của đời sống này bị đảo ngược."
"Nếu bạn mãi suy nghĩ những điều này
Về những hành vi và các kết quả không thể nào tránh được của chúng
Và những đau khổ của sự luân hồi, "
"Tiếp nối một khát vọng giác ngộ viên mãn cao nhất", đó là giống như "mục đích vị tha tối cao giác ngộ."
"Đã bước vào lồng sắt của việc hướng tâm "
"nhận thức Tính Không", đó là "nhân quả của tất cả muôn trùng hiện tượng."
Từ Tsong Kha pa, Three Principle Aspects of the Path
[George Harrison, Within you without you, 1967]
Chúng ta sống nhiều kiếp sống của chúng ta trong mạng nhện chằng chịt những tham
dục và phẫn nộ. Đạo Phật nhắm
vào việc phá hủy bản ngã, sự tu tập chánh niệm, hạnh phúc, lòng từ bi, an
hòa và nhẹ nhàng. Điều này phải được gieo
trồng trong một
môi trường bao
gồm sự chinh phục những cám
xúc, sự
chinh phục những ham muốn và chán ghét ,
nhận diện những phản ứng, và một thái độ quan
tâm đối với tất
cả sự sống.
Truyền thống Nguyên Thủy chủ yếu nhấn mạnh
đến đạo đức, chánh niệm và tự kiềm chế, nhằm
mục đích đạt được sự giác ngộ có
thể sau nhiều kiếp sống tương
lai. Truyền thống Đại thừa chủ
yếu đặt nặng việc đạt được không chỉ đối với tuệ giác, nhưng cũng
bao hàm ý nghĩa Phật quả. Sự khác biệt tinh
tế này có nghĩa là sự
rèn luyện không chỉ để đạt được sự hiểu biết sâu
sắc và giải thoát cá nhân từ vòng Luân hồi, mà còn để thực sự trở thành một vị Phật, một vị hoàn toàn giác ngộ đầy đủ
đức tính từ bi cứu giúp mọi
loài xuyên qua nhiều kiếp sống nhằm
đạt được trí
tuệ và giải thoát. Trong
học
thuyết Đại thừa, đề cao việc trở thành một vị Bồ tát, đó là một vị Phật tương lai phấn
đấu vì sự giác ngộ của
những người khác thành Phật trước mình. Tantrayana (Kim cương thừa) bao gồm những
đường hướng Đại
Thừa nhằm
mục đích đạt được Phật quả
viên mãn ngay trong cuộc đời này.
Trong truyền
thống Thiền Đại
Thừa, đúng hơn
tích cực tàn phá bản
ngã xuyên qua quán
niệm hơn là sự thụ động và tự phủ
nhận là kết quả của một cuộc sống
kỷ luật lớn, sự đơn giản và tập trung. Bằng cách này,
nó nhằm mục đích vươn
tới sự
hoàn hảo đối với việc kiểm soát tâm ý và đạo đức bằng
cách nhận
thức hoàn
thiện tính không và sự tĩnh
lặng tâm ý:
"Những chuyến du hành
xa hơn
Ít ai biết
được."
[George Harrison, The Inner Light, 1969]
Tất cả các khía cạnh khác của đời người,
và thậm chí cả kinh điển Phật giáo
đã
cố ý giảm bớt (những ngôn từ) có thể. Thức ăn của đời
sống Thiền là không ngừng đối đầu với những khuyết
điệm tâm lý của tự
thân:
"Chúng ta chỉ là hai linh hồn lạc
loài bơi trong một bát cá, năm này qua năm
khác,Chạy trên mặt đất
cũ.
Chúng ta đã tìm thấy những gì?
Y như những nỗi sợ hãi ngày xưa. "
[Pink
Floyd Wish you were here, 1975]Chúng ta đã tìm thấy những gì?
Y như những nỗi sợ hãi ngày xưa. "
Truyền thống Tây Tạng tu tập để đạt đến Vô ngã qua việc thực hành lòng Từ bi rộng lớn và bằng cách đặt sự
đau khổ của người khác hơn là của chính mình để phát triển tình
thương vị tha, rất
đặc biệt của một
vị Phật cũng
như trí tuệ của ngài. Sự phấn đấu này
nhằm phát
triển hai
khía cạnh quan trọng của Phật quả với nhau, kề cận nhau. Chánh niệm và Thiền định đóng một vai trò nổi bật. Nghi
lễ, hình tượng, học thuộc
lòng kinh
điển và tham gia vào cuộc tranh luận về những điểm tốt hơn về giáo lý cũng được sử dụng để có hiệu lực tối đa khơi dậy cảm giác tôn
giáo và một sự hiểu biết thấu đáo về tánh Không.
Không
sai khi cho rằng
Phật giáo bắt đầu
và kết thúc với
học thuyết về đau khổ. Điều
này nằm ở gốc
rễ của
nó cũng
như căn
cứ vào ở gốc
rễ của
chính đời sống. Chúng ta được sinh ra trong đau khổ - "như một con chó
không có cục xương, chúng ta bị ném vào trong đời sống này" [The Doors] -
và tất cả chúng
ta phải chết với
kinh nghiệm đau đớn và mất mát. Tất nhiên, chúng ta cũng có kinh nghiệm hưởng thu nhiều niềm vui, nhưng đau khổ dường như
là sự tác động bao
trùm của tất cả cuộc sống và
của chúng ta. Chính Phật giáo bàn luận đến rất nhiều với các nghiên
cứu về đau khổ trong tất cả các
hình thức của nó, nó là gì, làm thế nào nó
phát sinh và làm thế nào
để trừ diệt nguyên nhân của nó, vượt
qua hoặc chuyển hóa đời sống-mục tiêu giảm thiểu sự
xuất hiện khổ đau, bằng cách cắt đứt nguyên nhân bên
trong cuộc
sống của con người qua thái độ và hành vi. Bằng cách này, một "đời sống mới" có thể được cải thiện khi nỗ lực và quyết tâm được trang bị với sự nỗ lực. Sự thay đổi và cải tiến thực sự chỉ
có thể có khi nỗ lực lớn được thực hiện bằng
những bài tập đúng. Đây là trường học và đạo lộ của Phật giáo. Do đó Phật
giáo là
một tôn giáo tự chuyển đổi và tự hoàn thiện, xuyên qua sự ứng dụng của những
nỗ lực không
ngừng:
"Hãy cố gắng nhận ra đó là tất cả bên
trong chính bạn
Không ai khác có thể làm cho bạn thay đổi."
[Within you without you, George Harrison, 1967]Không ai khác có thể làm cho bạn thay đổi."
Vì Phật giáo là một tôn giáo quan
tâm chủ yếu đến đau khổ, vì vậy, đặc biệt nó
đồng nhất với các tầng lớp lao
động bị áp
lực đè nặng với 'thất bại trong
cuộc sống” và sự đau khổ của những
chướng ngại, không
có cơ hội tiến
triển, thất vọng và nghèo
nàn v.v… Do đó Phật giáo hòa đống đối với
những mức độ với tất cả người nghèo
và những người đau khổ như thế khi nó tạo
nên một học thuyết trung tâm đối với những hình thái đó. Nó xác định như
một chủ thể học thuyết của chính
nó, do đó,
với những trạng huống biểu lộ hơn
về sự đau khổ của con người, mà chủ yếu
được tìm thấy rõ
nhất trong các tầng lớp xã
hội thấp hơn của xã hội. Đây không phải để nói rằng người giàu và có đặc quyền không kinh nghiệm đau khổ,
nhưng ngay cả những người hạnh phúc đang tận hưởng cuộc sống hiện tại. Họ cũng đau
khổ với những giới hạn.
Trong mọi trường hợp, có những hình thái vi tế và hiện hành của đau khổ và những
trạng thái bất
tịnh của tâm ngay cả đối với những
người giàu có và hạnh phúc. Họ
cũng bị đau
khổ vì sự mất mát, chán
chường và
thất vọng. Họ cũng nặng
trĩu với sự ghen tị, tham
lam, sợ hãi và tham muốn. Tuy nhiên, sự
đau khổ chính được giới hạn trong giai cấp thấp và nghèo nàn so với những người giàu có. Một trong những đặc điểm nổi bật của những người lao
động là họ chịu nhiều đau khổ hơn với những trì trệ,
thất bại
và thất vọng trong cuộc sống
của mình. Do đó chúng tạo nên một chủ đề tốt dành cho việc nghiên cứu đối với Phật tử. Vị trí của họ trong xã hội có được một sự đồng cảm chính đáng đối với họ, và điều
này dễ đưa
đến sự cảm
thông với nỗi
đau của họ, dù là một Phật tử nghiêm ngặt có thể cho rằng sự đau khổ của
mình là sự chín muồi của nghiệp xấu của mình [là "sai
lầm
của chính mình" ] hoặc đó là ảo tưởng trong
ý nghĩa sâu sắc của nó là một khía cạnh về tự tính Không tồn tại của cái Tôi, dựa trên một cấu trúc của tinh thần..
Đúng hơn, có thể nói rằng, với phương pháp thiền định và chánh niệm trong
Phật giáo có
thể không đạt tới vô ngã, bởi vì chỉ thực
hiện các hiệu
lực này
và chúng không trực tiếp chống lại
bản ngã. Bản ngã phải
được giải quyết, nó phải được chinh phục và giảm
thiểu nếu nhận
thức đúng xuất hiện:
"Khi bạn đã nhìn thấy những
điều thoát khỏi chính
bạn thì bạn có thể tìm thấy
tâm An lạc đang đợi chờ ở đó. "
[George
Harrison, Within you without you,1967]tâm An lạc đang đợi chờ ở đó. "
Ví dụ, một người có thể thực
hành thiền
định và chánh niệm
lâu năm, biết tất cả những giáo pháp bằng tâm
mình, nhưng vẫn còn
bẩm tánh kiêu ngạo. Điều này là do ý thức của chúng ta về cái
Tôi còn
tồn tại và rất khó diệt
trừ. Đối với
một số chúng ta, Bản ngã trở nên quá rắn chăc và chúng ta
đồng nhất với tâm
này, cơ thể
này và các chi
tiết của cuộc sống này rất
ư chặt
chẽ. Rồi chúng ta rất miễn cưỡng để cho những yếu
tố này ra đi, để
nới lỏng sự chấp thủ và để cho cái tôi tan đi:
"Tôi xây dựng nhà của tôi bằng những hòn đá
bao nhiêu nút thắt không đáng mà tôi đã buộc
Tôi đào những cạm bẫy trong con đường của tôi
bao nhiêu nước mắt không đáng mà tôi đã khóc.”
[Robin Williamson,
Cutting Strings, 1970]bao nhiêu nút thắt không đáng mà tôi đã buộc
Tôi đào những cạm bẫy trong con đường của tôi
bao nhiêu nước mắt không đáng mà tôi đã khóc.”
Nếu chúng ta dựa trên những vấn đề
này như thế nhận thức của chúng ta về bản ngã rất mạnh mẽ; tuy nhiên, nếu chúng ta buông bớt cảm giác của mình đối với việc đồng hóa với thân, tâm của chúng ta và vị trí của chúng ta trong cuộc sống, khiến cho chúng hơi thoát
xa và ít
quan trọng, đó là không chấp
thủ với chúng thì ý thức
cái Tôi theo đó mà giảm bớt. Nhưng kế đến là nhận thức sáng suốt
cùng
với niềm vui và lòng từ bi
thực sự có thể hiện
hữu:
"Bạn cho tất cả mọi
người ánh sáng của bạn và nó chỉ
làm cho bạn tươi sáng hơn."
[You get brightness every day, Mike Heron, 1967]
[You get brightness every day, Mike Heron, 1967]
Dường
như ai đó khác yêu mến người
khác đến mức độ họ không còn quá yêu mến bản thân:
"Bạn chưa bao giờ thưởng thức thế giới đúng
Cho đến khi biển tự thân trỗi nhịp
Trong tĩnh mạch của bạn và bạn được che phủ
Với các tầng trời và đăng quang với các vì sao. "
Thomas Traherne]Cho đến khi biển tự thân trỗi nhịp
Trong tĩnh mạch của bạn và bạn được che phủ
Với các tầng trời và đăng quang với các vì sao. "
Đây là sự ứng dụng đúng về
việc không chấp và chánh niệm
như thuốc giải độc tinh thần của tính ích kỷ. Có thể xuyên qua tính Không hay lòng Từ bi, và kiên nhẫn, hoặc
sự
Bố thí, bằng cách này hoặc cách khác người ta phải giải phóng sự kìm kẹp của
bản ngã để đạt được sự chứng ngộ tuyệt vời. Đơn
giản là không có cách nào khác.
Đó là sự kháng cự cái Tôi chống lại sự thực hiện lòng vị tha và tính
Không và ngăn
cản chúng ta đạt
được cái nhìn sâu sắc hoàn
thiện. Sự đề
kháng này có thể to lớn đối với những ai đã có thói quen nhận diện rất vững chắc về nhận thức hiện tại của mình và hoàn cảnh cuộc sống với tâm thức minh mẫn và trống rỗng, đó là
nền tảng cho tất cả sự sống và chảy xuyên
qua tất
cả muôn pháp:
"Và để thấy,
sự thực bạn chỉ là rất nhỏ
Và cuộc sống chảy trong bạn và không có bạn."
[Within you without you, George Harrison, 1967]Và cuộc sống chảy trong bạn và không có bạn."
Cái tôi khiếp
đảm đối với sự tuyệt chủng của
chính nó hơn bất cứ đìều nào khác. Khi nó chảy qua tất cả mọi thứ không
thể bị phá hủy thì không có nỗi sợ hãi phát sinh.
Khi những ý
tưởng này trở nên cảm nghiệm và thẩm thấu hoàn toàn, nó sẽ có thể hiểu
lý do tại sao Đức Phật được gọi là Đấng Điều ngự, Thế Tôn, Như Lai, Vô
thượng sĩ,… nhà
Đại hiền triết Ấn Độ, Bậc thầy Hoàn vũ, và Bâc Thiên Thê [Sugata]… vì khi bản ngã thực sự đã bị phá vỡ và niềm an lạc và lòng từ bi vị
tha đã phát
khởi, cõi tâm
đã thực sự hòa nhập vào hạnh phúc, đó là Phật quả.
Tinh
tấn để "không chấp
thủ với những thú vui của
cuộc sống trần tục."
"Ái dục luân hồi dẫn đến trói buộc sự hiện
sinh.""Làm sao đối với sự hiện hữu của đời sống này bị đảo ngược."
"Nếu bạn mãi suy nghĩ những điều này
Về những hành vi và các kết quả không thể nào tránh được của chúng
Và những đau khổ của sự luân hồi, "
"Tiếp nối một khát vọng giác ngộ viên mãn cao nhất", đó là giống như "mục đích vị tha tối cao giác ngộ."
"Đã bước vào lồng sắt của việc hướng tâm "
"nhận thức Tính Không", đó là "nhân quả của tất cả muôn trùng hiện tượng."
Từ Tsong Kha pa, Three Principle Aspects of the Path
No comments:
Post a Comment