Khái
niệm về Nghiệp (Karma) đã thấm vào xã hội Mỹ và phương Tây. Nó được đề cập rộng
rãi khi một người giải thích các sự kiện nổi bật mà họ không biết nguyên nhân
trực tiếp. Sự phản ứng là: "Đó là Karma (nghiệp) của tôi." Nói chung,
có một ít phản chiếu chỉ những gì nó có nghĩa. Đôi khi nó xuất hiện như là một
cách nói khác,"Nó được định như thế." hoặc "Đó là số phận."
Nó trở thành huyền bí, động lực định hình cuộc sống của chúng ta.
Thuật
ngữ Karma là một thuật ngữ tiếng Sanskrit của Ấn Độ, có nghĩa là Đạo luật và nó
được kết hợp với tất cả các truyền thống tôn giáo lớn phát triển ở Ấn Độ, trong
đó có Phật giáo. Những hành động tạo nguyên nhân hay động cơ làm phát sinh hậu
quả hay hiệu ứng. Những hiệu ứng xuất hiện trong quá trình của cuộc sống, tùy
thuộc vào ưu thế của những hạt giống tốt hay xấu mà tạo ra những kết quả đó.
Khi
khái niệm này phát triển ở Ấn Độ, nó đã hiển nhiên không thể tách rời từ niềm
tin về luân hồi. Ý tưởng về sự tái sinh lặp đi lặp lại trong các hình thái tương
quan với Karma của một người cũng được dựa trên niềm tin vào một linh hồn vĩnh
cửu. Bằng chứng cổ xưa đối với niềm tin này đã được quan sát với sự lột xác của
rắn, lột lớp da cũ cho một cái da mới. Ngoài ra những thời kỳ của mặt trăng
cũng như sự biến đổi của sâu nhộng thành bướm bướm.
Nghiệp
thừa nhận công lý cơ bản của cuộc sống. Hình phạt luôn luôn phù hợp với các tội
phạm. Các điều kiện của con người sinh vào thế giới này và những phát triển
thành công của họ trong cuộc sống được coi là kết quả của các quyết định và
hành động trong cuộc sống trước của họ. Nghiệp và Luân hồi giải thích sự ra đời
của những người khuyết tật, thần đồng, hay những tình trạng của con người trong
cuộc sống như cao hay thấp, hay như tầng lớp kinh tế hoặc xã hội mà người ta
sinh vào.
Sự hấp
dẫn của các khái niệm này có thể được minh họa từ một câu chuyện trong Tân ước
Kitô giáo. Chúa Giêsu gặp một người đàn ông mù bẩm sinh, tín đồ của ông ta hỏi
có phải chính người đàn ông này hay là cha mẹ ông ta đã phạm tội dẫn đến khổ lụy
này. Chúa Giêsu trả lời là chẳng phải,
nhưng mà Thiên chúa đã tuyên dương. Nhân đó, ông ta chữa lành cho người
đàn ông này. Tuy nhiên, đó không phải thực sự là một câu trả lời. Ngoài khái niệm
về Nghiệp và Luân hồi không có câu trả lời nếu người đàn ông và cha mẹ ông ta đều
bị loại trừ. Đó sẽ là một cơ hội cho một phép lạ vào khi mà không còn phương
cách đối phó với tình trạng của tất cả những người khác với khổ đau tương tự như
từ khi sinh ra, những người bẩm sinh không lành lặn…
Giáo
lý về Nghiệp và Luân hồi truyền khắp châu Á, bởi vì nó đã trả lời được những vấn
đề rắc rối của đau khổ. Nó cũng vượt ra sự chi phối của các thần linh vốn được
cho là giận dữ và ác hiểm không thể đoán được. Nó cũng bác bỏ phép lạ bởi một
thần linh nhân từ, vì tất cả mọi thứ đều theo nguyên nhân và kết quả nghiêm
túc. Thay vào đó, có một luật lệ đạo đức chi phối vũ trụ bắt nguồn từ nhân và
quả tác động với phẩm chất của các hành động của chúng ta.
Nghiệp
và Luân hồi là niềm tin phổ biến cũng vì chúng kêu gọi một sự tự-quyết và tự-hưởng
của cá nhân lợi ích như một phương tiện để kích thích hành vi tốt. Chúng phụ
thuộc vào phản ứng khổ-vui. Chúng ta ai cũng tìm kiếm niềm vui vượt qua nỗi
đau. Thông qua sự tích lũy thiện nghiệp cuộc sống của chính mình có thể tăng trưởng vận mệnh của chúng ta trong sự cải thiện ở kiếp
kế tiếp.
Khái
niệm Nghiệp phức tạp hơn so với sự hiểu biết thông dụng. Làm thế nào mà nghiệp
trở nên chín muồi hoặc trở thành nghiệp quả? Trong triết lý của Phật giáo, Nghiệp
có thể chín muồi hoặc phát triển trực tiếp trong cuộc sống tiếp theo, hoặc sau
một vài kiếp sống sau, hoặc từ một quá khứ nào đó. Sự chín muồi của Nghiệp có
thể được so sánh với một hạt giống nằm im cho đến khi các điều kiện của độ ẩm
và ánh nắng mặt trời…kích hoạt các hạt giống. Chúng ta nhìn thấy nó trong đời sống
con người như những đứa trẻ sở hữu tất cả các tiềm năng của một người trưởng
thành từ sự bắt đầu không trưởng thành cho đến khi thời điểm thích hợp.
Nghiệp
cũng được kết hợp với các duyên. Khi đủ duyên, kết quả nghiệp (nghiệp báo) có
thể xuất hiện. Mặc dù khái niệm Nghiệp đôi khi được xem như là một định mệnh từ quan điểm nhận thức, Phật giáo bác bỏ thuyết
định mệnh. Phật giáo thừa nhận rằng hậu quả tốt hay xấu trong Nghiệp quá khứ có
thể được tăng trưởng, cân bằng hoặc mất tác dụng thông qua việc bù đắp hành vi
thiện nghiệp. Ngoài ra nó có thể đuợc giảm bớt bằng việc xuất tác những điều kiện
tốt, như thế ngăn cản sự đơm hoa kết trái của bất thiện nghiệp. Dựa trên nguyên
tắc tự do ý chí, Phật giáo dạy rằng ác nghiệp có thể được khắc phục bằng thiện
nghiệp. Đó là sự tích cực và lạc quan.
Tin
tưởng vào Nghiệp có thể được sử dụng để củng cố các điều kiện kinh tế và xã hội
của một đẳng cấp tôn giáo. Cho rằng các tu sĩ là bậc cao nhất trong việc đạt được
thiện nghiệp; Phật tử được khuyến khích thực hiện những việc có ích nhân danh
người chết để bổ sung thiện nghiệp cho người thân và bạn bè nhằm chuyển giao
công đức cho người quá cố để thiện nghiệp của họ tăng lên và đi đến một cõi giới
tốt hơn. Như đã thấy, ở các nước Phật giáo các tu viện và tự viện, qua nhiều thế
kỷ, trở nên giàu có và thường sở hữu những vùng đất rộng lớn. Các tu viện và tự
viện này cũng tài trợ và truyền cảm hứng cho các tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời
mà thế giới ngưỡng mộ, thật vô giá.. Được khuyến khích bởi kinh sách Phật giáo,
người dân tin rằng việc duy trì thứ bậc tu tập đóng góp vào sự hòa hợp với vũ
trụ và tạo ra sự thịnh vượng và hòa bình trong xã hội.
Với
sự xuất hiện của truyền thống Phật giáo Đại thừa, có một sự thay đổi trong sự
hiểu biết về thực thể tôn giáo và siêu hình. Mục đích của kỷ luật tu viện và tinh
thần là trở thành Phật ngay bây giờ hơn là vào Niết bàn một cách cá nhân và đạt
được giải thoát từ khổ nghiệp trong vòng luân hồi tiếp tục. Trong Đại thừa các
mục tiêu đạt ngộ có nghĩa là để trở thành một với nỗ lực hành động quên mình để
cứu độ tất cả chúng sinh. Điều này trở thành vị tha hơn.
Ở cấp
độ của những người bình thường, Nghiệp và luân hồi vẫn còn. Chúng sinh có thể
trãi qua cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ngạ quỷ, con người, các vị thần
và trời. Nghiệp quyết định vị trí của từng người. Tùy thuộc vào sự chín muồi của
Karma người ta có thể lên hoặc xuống. Khi họ trở thành con người, họ có tiềm
năng để phấn đấu cho sự giác ngộ và thoát khỏi quá trình của Nghiệp. Họ đạt được
sự giải thoát từ hệ thống toàn thể của luân hồi trong Phật giáo Đại thừa bằng
cách trở thành Phật - bản thể là điều kiện của Niết Bàn, đó là tự ngã (chân thật),
thanh tịnh, hạnh phúc, vĩnh cửu. Nó đồng nhất với thực tại.
Trong
Phật giáo Đại thừa, người bắt đầu tu tập xuyên qua việc tìm kiếm sự giác ngộ bên trong. Trong
quá trình này, ai nhận ra rằng tất cả chúng sanh là cùng bản chất và phụ thuộc
lẫn nhau, rằng tôi không thể giải thoát ngoại trừ chúng sanh được giải thoát như
nhau. Không có sự cứu độ mà không bao gồm tất cả những người khác. Không có cá
nhân hay sự cứu độ cô lập. Tất cả chúng ta là một thực thể như nhau và tất cả đều
có tiềm năng để trở thành Phật. Giống như sự tự do và giải thoát, sự cứu độ
không thể phân biệt. Phật giáo Đại thừa bao hàm một khái niệm rộng lớn hơn đối
với xã hội và trách nhiệm của con người.
Do
đó, nguồn cảm hứng và động lực phấn đấu cho sự cứu độ hay giác ngộ chuyển hóa từ
việc tìm kiếm tự lợi vì mục tiêu phúc lợi của tất cả. Đạo đức được nhấn mạnh
trong Phật giáo Đại thừa là Dana (bố thí) hoặc vô ngã vị tha. Đây là dấu hiệu cần
thiết đối với mục tiêu của Bồ tát để trở thành Phật, đặc điểm của vị Bồ tát vô
ngã là từ chối nhập Niết-bàn cho đến khi tất cả chúng sanh đạt được trí tuệ
giác ngộ như mình.
Với
sự phát triển các khái niệm về Tịnh độ hay Phật-quốc, nguyên tắc cũng được thể
hiện bởi ý tưởng về sự trở lại của các vị Bồ Tát từ cõi Tịnh độ vì thế gian để
tiếp tục phục vụ cho lợi ích của chúng sanh. Theo niềm tin chung, sau khi sinh
vào cõi Tịnh độ, một là trong môi trường hoàn hảo để tu tập và hoàn thiện Bồ
tát đạo bằng cách thực hành trong sự hiện diện của một vị Phật, như Đức Phật Di
Đà, vị Đạo sư tâm linh ấn chứng cho công hạnh của hành giả được hoàn mãn. Sau
đó, vị Bồ Tát trở lại với thế giới Ta bà để giúp chúng sinh khác. Sự tái sinh
này không bị quyết định bởi Nghiệp nhưng do tự (thệ) nguyện, động lực của tinh
thần. Sau khi hoàn thành con đường Bồ tát, Bồ tát cũng trở thành Phật và tiếp tục
công hạnh cứu độ. Tuy nhiên, một số các vị Bồ Tát như Quan- âm tự nguyện ở lại
thế giới này để tiếp tục giúp chúng sanh đau khổ trong khi chúng quên bản tâm
giác ngộ của mình.
Điều
quan trọng cần lưu ý trong Đại thừa huyền thoại và biểu tượng là quá trình của
Nghiệp-Luân hồi vượt qua được bởi nguyện vọng cống hiến bản thân cho hạnh phúc
của người khác. Động lực tôn giáo chuyển biến từ những nỗ lực tự lợi thành lòng
vị tha trong việc hy sinh cho người khác mà không nghĩ đến chính mình. Vì vậy,
lý do sâu xa hơn trong Phật giáo Đại Thừa vì Phật tử không chỉ đơn giản là để đạt
được thiện Nghiệp và có lợi ích cho bản thân nhưng để nâng cao tinh thần và làm
việc cho phúc lợi của người khác.
Ở cấp
độ ban đầu, Nghiệp và Luân hồi động viên con người với sự quan tâm niềm tin cá
nhân. Nó được thúc đẩy bằng ước muốn tự-bảo bọc. Tuy nhiên, với chiều sâu về
cái nhìn và hiểu biết sâu sắc khi đã thấy rõ được đại dương đau khổ của chúng
sanh, khơi dậy lòng từ bi và thệ nguyện vì phúc
lợi của chúng.
Nghiên
cứu thêm để hiểu biết về Nghiệp rất là quan trọng. Nghiệp phải luôn luôn được
coi là ‘Nghiệp của tôi’. Nếu nó được xem một cách khách quan, ngoài chính mình,
trong việc hướng tới những người khác, nó có thể trở thành một cách đổ lỗi cho
nạn nhân về điều kiện sống của họ, trở thành phán xét và thờ ơ với vận mệnh của
người khác. Nó có thể làm tăng cảm giác ưu việt, chẳng quan tâm đến hoàn cảnh của
người khác vì chỉ là ‘Nghiệp của họ’. Nghiệp khẳng định hiện trạng và hỗ trợ
luân lý và luật pháp. Mặt khác, thấy Nghiệp như ‘Nghiệp của mình’ có nghĩa là
phải chịu trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình. Sự nhìn nhận này khuyến
khích sự nhạy cảm với hành động của mình, chấp nhận hậu quả.
Kết
luận, các khái niệm về Nghiệp và Luân hồi có lẽ là những giáo lý quan trọng và
có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển ở Ấn Độ cổ đại, lan rộng khắp châu Á, trong
khi dần dần thấm nhuần thế giới phương Tây. Nó có được sự hưởng ứng hấp dẫn và
bền bỉ nhất đối với vấn đề tại sao con người chịu đau khổ và lý do tại sao người
ác thì lại có đời sống may mắn, và người lương thiện thì gặp phải rủi ro. Nó giải
đáp những gì mà chúng ta cần biết: "Tại sao?" Nó thuyên giảm sự lo lắng
hoặc nỗi sợ kỳ quặc, các thần linh quái dở. Ở phương Tây, Kinh Thánh dạy rằng bạn
gặt hái những gì mình gieo nhưng ý tưởng về luân hồi thì không có. Trong triết
học Hy Lạp, Pythagoras dạy một ý tưởng so sánh, nhưng nó đã không nắm bắt như một
giải pháp cho thắc mắc của con người "Tại sao những điều đó xảy ra với họ?"
Có lẽ
đó là sự bất ổn và sự phức tạp của cuộc sống hiện đại với nhiều ẩn số của nó đã
dẫn đến sự tăng trưởng phổ biến của khái niệm. Tuy nhiên, Nghiệp không phải là
một giải pháp cho vấn đề của cuộc sống. Điều đó phải được tìm kiếm trong những
lời dạy tâm linh nhằm mục đích mang lại tiến trình kết thúc thông qua sự Giác
ngộ. Nghiệp đại diện cho các giai đoạn đầu của đức tin và kích thích việc tìm
kiếm các giải pháp.
No comments:
Post a Comment