Cuộc
sống của chúng ta tồn tại trong khung thời gian của quá khứ, hiện tại và tương
lai. Chúng ta được sinh ra nhiều năm trước đây, sống trong hiện tại và chết vào
một ngày trong tương lai. Đây là khái niệm chúng ta bị dính chặt vào. Khái niệm
về thời gian này là thiết yếu đối với lợi ích của nhân loại và nếu không có chức
năng trật tự của xã hội sẽ không bền vững. Quan điểm thành lập này thì không
nhiều hơn một sản phẩm của một kết quả tất yếu thuộc về một tiến trình tự nhiên
của điều kiện từ khi chúng ta được sinh ra. Đó là quá trình nhân duyên trong
khung thời gian tạo ra quan điểm này, ‘tự ngã’. Thực tế, nó là kết quả của sự
kích hoạt 'kilesas' (phiền não) ẩn tàng đã gây ra điều kiện này để tạo nên ‘tựngã’
từ khi chúng ta còn bé. Đây là tiến trình mà chúng ta không biết.
Tâm,
vốn thanh tịnh và không bị ô nhiễm, khi sinh ra bị ô nhiễm hoặc do duyên kích hoạt của 'kilesas' (phiền não), kết quả
từ sự huân tập tiếp xúc bên ngoài với các giác quan. Điều kiện này là rất mạnh
mẽ mà tâm đã làm quen với quy trình và chấp nhận thời gian như nhân tố chính
cho chức năng của nó. Trong quá trình này, tâm mất bản chất tinh khiết ban đầu
của nó, vốn có thể chỉ kéo dài vài tháng từ khi mới sinh. Với điều kiện này,
'hiện tại' bị che mờ bởi quá khứ và do đó phủ nhận kinh nghiệm của khoảnh khắc
vô tận của hiện tiền. Thay vào đó, tâm xác định các đối tượng trong khung thời
gian với ‘Danh’ và ‘Sắc’. Đây là kết quả ảo tưởng từ vô minh (avijja-thiếu hiểu
biết). Tuy nhiên, sự ‘vô minh’ này thì hoàn toàn khác với sự thiếu hiểu biết
truyền thống. Nó chỉ đơn giản là sự bất lực của tâm để thấy tiến trình riêng của
nó. Sự Vô minh này đã gây ra nguyên nhân khởi đầu với những chi phối hiện nay
và sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời của chúng ta. Chúng ta kinh nghiệm kết quả tự
nhiên của quá trình này như là thực tại ở mỗi thời điểm trong cuộc sống của
chúng ta, nghĩa là, chúng ta buộc phải nhìn thế giới qua các cửa sổ của sự vô
minh này.
Giác
ngộ là 'vượt thời gian'. Đó là một kinh nghiệm vượt ra ngoài quá trình của tâm
bị lệ thuộc theo thời gian. Vì nó là vượt thời gian nên nó vượt quá trình tư
duy. Đó là những trải nghiệm của 'hiện tiền vô hạn’. Đó là nơi 'pháp' thanh tịnh
hoạt động - sinh và diệt đồng thời. Đó là trải nghiệm của sự thực. Đó là trải
nghiệm tịnh 'pháp' ngoài tâm tạo nên kích thước thời gian. Đó là nơi mà quá
trình tư duy bị kích hoạt bằng 'kilesas' không còn hoạt động. Nó là nơi mà những
tồn tại sự thực và ảo tưởng về ‘ngã’ được hiện hữu. Đó là nhận thức về sự vô
minh của tâm mình với bình minh của trí tuệ. Đó là nơi mà cá nhân không tồn tại.
Với
trình bày ngắn gọn ở trên, bây giờ chúng ta có thể tiếp tục xem xét một vài
khía cạnh về những lời thuyết giảng của Đức Phật để có được một sự hiểu biết tốt
hơn về các khái niệm về sự 'vô hạn' (timelessness). Các nhóm từ quen thuộc
'Akaliko Bagavatho dhammo' ('pháp là vô hạn’) ngụ ý rõ ràng rằng giáo pháp Đức
Phật thuyết giảng là một tiến trình vượt thời gian. Đức Phật đã cố gắng để giáo
dục con người có cơ sở rất cơ bản của giáo pháp, đó là sự vĩnh cửu trong bốn mươi
lăm năm của Ngài. Nhưng chúng ta có xu hướng nhìn giáo pháp trong khung thời
gian: đọc Kinh điển, nghe pháp từ cộng đồng tu sĩ hoặc ‘nương tựa’ trong ‘Tam Bảo’.
Kinh sách có thể chứa sự thật về giáo pháp hoặc những giải thích khác nhau g về
những luận điểm giáo pháp của Đức Phật. Các nhà sư có thể cố gắng giải thích
giáo pháp trong bài giảng của họ. 'Tam Bảo' theo cách hiểu truyền thống dựa vào
đặc trưng của Đức Phật, Giáo pháp trong sách và cộng đồng tu sĩ. Chúng không phải
là pháp hành vượt thời gian. Tuy nhiên, đôi khi chúng có thể phục vụ như một sự
hướng dẫn để hiểu giáo pháp. Giáo pháp chính là một tiến trình hoạt động vượt
thời gian.
Cụm
từ khác là 'Uppada vaya Dhmmino' (Pháp sinh diệt). Điều này nói đến sự phát
sinh và chấm dứt đồng thời của Pháp - chấm dứt trong sự phát sinh. Nó mâu thuẫn
với các khái niệm Vệ đà 'Uppada titi Banga' (phát sinh, tồn tại và hoại diệt).
Bản chất của pháp là nó diệt khi nó sinh, ví dụ đó là 'vô thường', bản chất vô
hạn của pháp. Đức Phật thấu suốt về sự 'thức tỉnh', bất cứ điều gì phát sinh do
các nhân duyên thì đều hoại diệt (Yan kinci Samudaya dhammam, sabbantham
nirodha dhammam). Đây là cách mà Ngài Kondanna, đệ tử đầu tiên của Đức Phật
cũng đạt được quả vị Sotapanna (Nhập lưu), lúc nghe 'Dhammacakkapavatana Sutta
(SN 56,11: Kinh Tạng - Samyutta Nikaya) trong bài giảng đầu tiên của Đức Phật.
Đây là điểm bước vào và mỗi người vượt
qua ranh giới về sự giác ngộ và kinh nghiệm hiện tượng này. Đây là tầm nhìn tuệ
giác hoặc sự trải nghiệm của hiện tại vô hạn.
'Vaya
Dhamma sankhàra’ (muôn sự đều vô thường) đề cập đến vô thường của 'sankhàra '(sắc/
tâm). Chúng chịu vô thường và hoại diệt (vaya) trong sự phát sinh, đó là hiện tượng
của sankhàra. Tuy nhiên, chúng ta có xu hướng bám víu vào sắc như là thật và
đau khổ. Ý thức lệ thuộc nỗ lực xây dựng trong khung thời gian của sự biểu hiện
hiện 'vô hạn’. Nó cố gắng để tạo ra một sự vĩnh cửu từ một quá trình năng động.
Do đó, cấu trúc đó là tất cả những ảo tưởng. Tâm là quá ảo tưởng trong tiến
trình mà nó tin là sự thực của các cấu trúc.
'Yo
Dhammam Passati, So Mam Passati' (Ai thấy pháp thì người đó thấy Đức Phật). Đây
là nguyên tắc cơ bản nhất mà ngài thành lập khi cho lời khuyên đối với Vakkali
- người đã cố gắng để ‘nhìn thấy’ Đức Phật bằng cách nhìn vào hình tướng vật lý
của Ngài. Đây rõ ràng là một nhắn nhủ cởi mở - đến bằng ‘cái nhìn tuệ giác', bằng
cái thấy các Pháp bên trong; nghĩa là, trải nghiệm Dhamma vô hạn hay các Pháp
trong sự vận hành vô hạn.
Triết
lý mà Đức Phật đã giới thiệu với thế giới hơn 2550 năm trước đây nói về một
khái niệm 'vô hạn', các hiệu ứng ảo tưởng kết quả từ sự vận hành của Pháp ngoài
thời gian, cá nhân hóa ảo tưởng và hiệu quả của cá nhân hóa như vậy, đó là
nguyên nhân chính cho sự đau khổ, dukka. Sự thực là 'vô thường' như thế hoặc sự
vận hành của Pháp vô hạn. Tuy nhiên, điều kiện tạo nên thực tế này bị hiểu sai
bằng cách giới thiệu một kích thước thời gian. Trong quá trình phức tạp này với
các sự vận hành của Nhân Duyên, một cái ‘Ngã’ được sinh ra, thế giới của các đối
tượng được tạo ra và cá nhân hóa hình thành dẫn đến khổ đau.
Vô
thời gian hiện hữu với ai có kinh nghiệm như là một ‘phi-ngã’ trở nên giác ngộ.
Tuy nhiên, quá trình vô hạn này không thể được thấy hoặc trải nghiệm bởi tiến
trình tâm như một ‘bản ngã’. Nó vượt ra ngoài quá trình suy nghĩ. Do đó, nó nằm
ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Cái 'tự ngã', các 'giác quan' hoặc thế giới
không thể tồn tại trong giây phút vô hạn này. Mặc dù mục tiêu của chúng ta là để
trải nghiệm giây phút hiện tại vượt ngoài tiến trình tâm, tâm cũng là vũ khí
duy nhất có sẵn đối với chúng ta để di chuyển theo hướng đó. Do đó, cách tiếp cận
của chúng ta phải có khả năng đọc hiểu bởi tiến trình tâm để bắt đầu.
Trong
phương pháp này, về cơ bản chúng ta chấp nhận thời gian và do đó sự tồn tại của
các giác quan vật lý và cũng là những tiếp xúc xảy ra với chúng. Những tiếp xúc
của các cơ quan cảm giác tuy là ấn tượng khách quan và chúng cũng biến mất khi
chúng xuất hiện mà không thường hằng, nhưng chúng tạo ra những suy nghĩ trong
khung thời gian đối với ‘tự ngã’. ‘Bản ngã’ có xu hướng cá nhân hóa những suy
nghĩ như vậy trong sự tin tưởng như chúng là có thật, dẫn đến đau khổ, dukkha.
Trong quá trình này, bắt đầu với các điểm tiếp xúc khách quan của các giác
quan, 'Năm Uẩn’ (sắc-Rupa, thọ-Vedana, tưởng-Sanna, hành-saṅkhārā, và thức-vinnàna)
kích hoạt và ‘duyên khởi’ vận hành trong vòng xoay và tiến trình suy nghĩ ngay
lập tức. Mặc dù sự kích hoạt của 'Ngũ Uẩn' không đưa đến tác hại, cá nhân hóa tự
động của "Ngũ Uẩn" với những vận hành tương duyên dẫn đến đau khổ -
dukkha từng khoảnh khắc. Do đó, vấn đề chính mà chúng ta phải đối mặt là cá
nhân hóa của tư tưởng phát sinh từ những xúc tác vô tình.
Hiểu
được những sự liên hệ (sắc, âm thanh, mùi, vị, và sự xúc chạm các giác quan) và
quá trình tương duyên nhau do những tiếp xúc đó sẽ là một điểm khởi đầu tốt hơn
cho cuộc hành trình phía trước. Điều này sẽ giúp ta hiểu được tiến trình tâm và
có khả năng nhận ra rằng những tiếp xúc ấy là là vô thường và cũng tạo nên tư tưởng,
tự ngã và thế giới đều là ảo tưởng. Cái tôi và thế giới phát sinh ngay lập tức
trong suy nghĩ khi một sự tiếp xúc xảy ra, nhưng hoại diệt trong sự phát sinh.
Khi sự hiểu biết này phát triển, người ta sẽ bắt đầu nhận ra rằng cá nhân hóa của
những tư tưởng vô thường như vậy sẽ không mang lại bất kỳ lợi ích, nhưng chỉ có
thể dẫn đến đau khổ.
Khi
chúng ta bắt đầu nhìn thấy các sự kiện một cách hợp lý với một tâm cởi mở,
không phải là khó khăn để nhận ra rằng 'Trilakkhana' - sự vô thường (anicca),
khổ (dukkha) và vô ngã (anatta) bên
trong suy nghĩ. Có ba đặc điểm của bhava, luân hồi, 'tự ngã' hay sự tồn
tại và chúng chỉ có thể được nhận thức trong một ý nghĩ. Ý nghĩ là vô thường
(anicca), nó tiếp tục khi nó phát sinh. Cá nhân hóa những tư tưởng dẫn đến đau
khổ (dukka). 'Tự ngã' được sinh ra trong suy nghĩ và chết với sự chấm dứt của
những suy nghĩ và không có tính thường hằng của cái tôi ảo tưởng này và do đó
vô-ngã (anatta).
Với
sự phát triển của một sự hiểu biết rất rõ ràng đối với tiến trình tâm, nó sẽ trở
nên dễ dàng để hiểu rằng ‘vô thời gian’ không thể được kinh nghiệm từ quá trình
tâm này. Do đó, tiến trình suy nghĩ hoặc bất kỳ hành động nào được cho là “tự
ngã” sẽ chẳng có ích gì để hướng tới mục tiêu cuối cùng. Điều này cũng có thể mở
mắt chúng ta với nghi vấn về sự liên quan của các niềm tin chung rằng sự tích
lũy công đức (trong đó có những hành động thực tế được thực hiện bởi một ‘tự
ngã’ trong quá trình suy nghĩ) là điều cần thiết để trở thành giác ngộ trong một
cuộc sống tương lai. Với sự thể hiện vô thường của những suy nghĩ, sự mong muốn
bám víu vào suy nghĩ sẽ tiêu giảm và việc thực hành 'cho đi' của tư tưởng sẽ trở
nên dễ dàng. Tuy nhiên, đây chỉ là sự khởi đầu. Sự chú ý của chúng ta phải được
tập trung không phải trên những suy nghĩ, nhưng với điểm phát sinh của suy
nghĩ.
Mặc
dù, chúng ta cho rằng những suy nghĩ nảy sinh mỗi giây phút, thực tế không có
suy nghĩ như thế được hình thành trong thực tại. Suy nghĩ chỉ có thể được hình
thành trong khung thời gian dù những tương xúc như sắc, thanh v.v…biến mất hay
khi chúng xuất hiện. Và dù chúng ta nghĩ rằng các giác quan là thường hằng, nó
cũng chỉ có thể khách quan đối thực tế, vô thường. Không có khả năng cho bất kỳ
suy nghĩ nào được hình thành từ các sự tiếp xúc thoáng qua như vậy, nhưng vọng
tâm có xu hướng so sánh tất cả sự tương
xúc trong quá khứ và tạo ra những suy nghĩ trong khung thời gian. Nó chỉ là một
tiến trình của duyên sinh của khổ thọ (kilesas) và vô minh (ignorance). Đây là
một ảo tưởng và không thực.
Suy
nghĩ chỉ có thể phản ánh quá khứ, đó là bộ nhớ. Chúng ta bị từ chối hiện tại với
sự phát sinh của những suy nghĩ từng giây phút. Vì vậy, ngay cả để tập trung
vào một 'đối tượng' hoặc trụ vào một ý nghĩ duy nhất là bản chất sống trong quá
khứ. Người ta không đi ra ngoài để phá vỡ các khung thời gian. Thực tại được trải
nghiệm trong hiện tại và không phải trong tiến trình tư tưởng. Đó là 'ở đây và
bây giờ’. Suy nghĩ chỉ phủ nhận những món quà thực tại, hiện tại vượt thời
gian.
Với
sự hiểu biết này, nó trở nên rõ ràng rằng chúng ta cần phải chánh niệm tất cả
các thời gian trong giây phút hiện tại. Không dừng lại ở suy nghĩ, nhưng để thực
hành đúng 'chánh niệm' (yoniso mansikara) – là chánh niệm những nguyên nhân hoặc
sự phát sinh của các hoạt động vô hạn. Tầm quan trọng của chánh niệm đối với
giây phút hiện tại được ghi trong những lời sau đây của Đức Phật trong Bahiya
(Bahiya Sutta: Udana 1.10 (Tipitaka - Sutta Pitaka – Khuddaka- Udana).
"Ditthe
Ditthamattam Bhavissati, Sute Sutamattam Bhavassati"
-
Trong cái thấy chỉ là thấy, trong cái nghe chỉ là nghe.
Ở
giai đoạn này, nó sẽ thích hợp để xem xét ngắn gọn những khoảnh khắc chánh niệm
từng giây phút, đó là Tứ Niệm Xứ (catu stipatthana): Chánh niệm đối với thân
(kayanu passana), cảm thọ (vedananu passana), tâm (cittanu passana) và đối tượng
của tâm (dhammanu passana). Việc thực hành chánh niệm liên quan đến bốn thành
phần: cơ thể, cảm giác, tâm và pháp. Những ‘Xứ’ này tồn tại trong giây phút thể
chất tồn tại. Nói cách khác, con người, cơ thể, cảm giác, tâm và đối tượng của
tâm cùng tồn tại trong một thời điểm hoặc chính xác hơn, chúng phát sinh với
nhau và biến mất với căn nguyên của nó. Quá khứ hay tương lai không có liên
quan đến chánh niệm của chúng ta. Đó là việc duy trì chánh niệm của khoảnh khắc
'hiện tại', nơi mà sự hiện hữu tồn tại, đó là điều cần thiết.
Sự
tiếp xúc của các giác quan với thế giới bên ngoài ngay lập tức tạo ra một ý
nghĩ và biến mất với căn nguyên của nó. Một cái 'ngã’, cơ thể, cảm giác, tâm và
đối tượng của tâm phát sinh trong phút giây đó trong tư duy bởi sự tương duyên
và tan biến ngay lập tức. sự vận hành này hoạt động trong hiện tại và không có
gì đi từ hiện tại đến thời điểm tiếp theo. Một cái ‘ngã’ không được sinh ra mà
không có tâm, thân, cảm giác và đối tượng của tâm. Tương tự như vậy, tâm sẽ
không phát sinh mà không có tự ngã, thân, thọ và pháp. Mặt khác, ví dụ, nếu cảm
giác không phát sinh thì tâm, pháp và ‘tự ngã’ không phát sinh. Tương tự như vậy,
nếu thân không sinh thì cảm giác, tâm, và đối tượng của tâm cũng không sinh.
Cảm
thọ không thể được trải nghiệm ngoài sự trải nghiệm thân. Tâm không thể được
kinh nghiệm ngoài sự trải nghiệm những cảm thọ và tương tự như vậy, đối tượng của
tâm (pháp), không thể được kinh nghiệm đằng sau sự trải nghiệm tâm. Tất cả bốn
điều cần phải có kinh nghiệm với nhau, đó là Tứ Niệm Xứ. Đây là kinh nghiệm về
giác ngộ. Vì vậy mục tiêu của chúng ta là, để phát triển các kỹ năng cần thiết
nhằm di chuyển theo hướng đó. Chánh niệm là trong hiện tại và quán chiếu sự biến
mất của ‘bản ngã’ khi nó được phát sinh, quán chiếu sự hoại diệt của những sự
phát sinh ý niệm trong cái sinh mà không có chấp thủ v.v…ví dụ, quán chiếu
chúng mà không thấy có một người quán chiếu.
Những
lời cuối cùng của Đức Phật - "Handadani bhikkhave amantayami vo, vaya
dhamma sankhàra, appamadena sampadetha ti" có nghĩa là "tất cả hiện tượng
hoại diệt, hãy nỗ lực giải thoát cấp bách" đã nhắc nhở chúng ta về tầm
quan trọng của chánh niệm luôn hiện diện…chánh niệm giây phút hiện tại. Tất cả
pháp, tâm hành (sankhàra) sinh diệt trong mọi hiện tượng. Appamada ngụ ý cấp
bách, không thể trì hoãn. Sự chậm trễ của chúng ta là tư tưởng, bị kẹt trong
khung thời gian. Đây là điều khó tránh khỏi và nó là sự trì hoãn. Không thể sống
trong 'khoảnh khắc' hiện tại. Đây là sự vắng mặt của chánh niệm. Sự vận hành của
pháp là bây giờ. Chân lý là hiện tại. Việc thực hiện là hiện tại. Để sống giây
phút trong hiện tại là những yêu cầu thiết yếu trong những lời dạy của Phật. Tư
tưởng ngăn cản chúng ta trải nghiệm những giây phút hiện tại. Chúng ta cần phải
phát triển các kỹ năng cần thiết và đó là ý nghĩa của 'sampadetha'. Do đó, nhu
cầu cấp thiết đối với chánh niệm là sống trong khoảnh khắc hiện tại.
No comments:
Post a Comment