Những
sinh viên học viện Phật giáo được khuyến khích học tiếng Sanskit (Phạn)
ngay cả đối với sự hiểu biết cơ bản của ngôn ngữ là một sự hỗ trợ đáng
kể trong việc tìm hiểu cả Kinh Văn Tây Tạng và Trung Quốc. Trong khi các
bản dịch sớm nhất của Trung Quốc được dựa vào Phi Phạn văn Trung Ấn
(Middle Indic languages, sometimes as the Prakrits - is a group in the
Indo-Aryan branch of the Indo-Iranian languages), về sau chủ yếu là
tiếng Sanskrit. Người Tây Tạng đã xây dựng nhiều ngôn ngữ mới để phản
ánh các Kinh văn tiếng Sanskrit mà họ thường dịch thuật một cách trung
thành.
Trong thế giới nói tiếng Anh hiện nay
rất nhiều thuật ngữ Phật giáo thường được sử dụng là tiếng Sanskrit như
saṃsāra (luân hồi), dharma (pháp) và nirvāṇa (niết bàn), mặc dù những
bản dịch trong một vài trường hợp là thông dụng hơn như từ "chúng sinh"
đối với sattva. Phậtgiáo Theravàda đặc trưng sử dụng Pāli, dù với người
khác có một sở thích quyết định hơn dành cho những phạm vi Sanskrit, nó
được xem như là bản gốc và mặc định. Trong sự thiếu vắng đối với vốn từ
vựng tiêu chuẩn của tiếng Anh Phật giáo, tôi cũng thích sử dụng thuật
ngữ tiếng Sanskrit dành cho độ chính xác của chúng. Tuy nhiên, tiếng
Sanskit như là ngôn ngữ được sử dụng để truyền đạt Phật Pháp là một sự
phát triển về sau trong lịch sử Phật giáo.
Hầu như trong khoảng thời gian đầu của
Kỷ nguyên, Phật tử ở phía Tây bắc Ấn Độ dưới thời Kuṣāṇas (30-375) đã
sử dụng tiếng Sanskrit như ngôn ngữ chung của họ. Trước đó đã có một quá
trình Sanskrit hóa (sanskritization), đặc biệt là với Gāndhārī (cổ ngữ
Ấn Độ). Cho đến lúc Phật tử đã biết cách sử dụng những ngôn ngữ địa
phương của chính mình. Những ngôn ngữ Trung Ấn Độ (Middle Indic) đã
không xuất phát từ tiếng Sanskrit, mặc dù nhiều người tin rằng chúng đã
có tác động thực tế trong thời gian thích ứng. Tuy nhiên, nó đặt ra câu
hỏi là tại sao truyền thống Phật giáo lâu đời rồi vẫn còn bắt buộc áp
dụng Sanskrit. Việc áp dụng rộng rãi của tiếng Sanskrit cho chữ khắc
cũng được phản ánh trong hồ sơ khảo cổ học mà Johannes Bronkhorst trong
tác phẩm Buddhism in the Shadow of Brahmanism của ông ta ghi nhận như
sau:
Trong vòng bốn thế kỷ, từ thời của
Hoàng đế Asoka (thế kỷ 3 BCE - trước Kỷ Nguyên) trở đi, người ta chỉ sử
dụng ngôn ngữ Indo-Aryan hơn là tiếng Sanskrit. Tiếng Sanskrit không có
sự xuất hiện trên những văn bản khắc trên bia đá cho đến những thế kỷ
đầu của kỷ nguyên. Rồi nó dần dần phát triển và trở thành chữ khắc bia
đá nổi bật nhất trong toàn bộ tiểu lục địa Nam Á và nhiều khu vực Đông
Nam Á. 1
Bronkhost cho rằng Bà La Môn giáo đã
có thiờ gian tác động ảnh hưởng chính trị và quyền lực trong khoảng thời
gian dài tại Ấn Độ trong khuôn mặt của các tư tưởng tôn giáo vì nó cung
cấp không chỉ những thầy tu hữu dụng được ưu ái bởi những nhà cầm
quyền, nhưng cũng vì những nhà trí thức của Bà la môn có tư cách cả tư
vấn chính trị tài giỏi và lý thuyết xã hội thiết thực. Đây là lý do tại
sao nhiều Tiểu lục địa đã ứng dụng tiếng Sanskrit như là một ngôn ngữ
chung. Cho đến khi các quốc gia và các dân tộc bao gồm cả Phật tử đã có
lý do để sử dụng tiếng Sanskrit. Ông ta nói, "tiếng Sanskrit là ngôn ngữ
cổ xưa của một nhóm sắc tộc, các Bà la môn, những người Phật tử không
có lý do cụ thể để bắt chước hoặc chấp nhận.” 2
Tuy nhiên, khi Bà la môn đã đạt được
sự ảnh hưởng và quyền lực của mình, họ cũng giới thiệu tiếng Sanskrit
hầu như ít người sử dụng trở thành ngôn ngữ của giới thượng lưu như được
phản ánh trong hồ sơ khảo cổ học. Đây là lý do thực sự tại sao Phật
giáo Ấn Độ đã sử dụng tiếng Sanskrit thay vì ngôn ngữ Trung Ấn (Middle
Indic) dễ hiểu vào thời gian đó khi nó đã có trước đó trong nhiều thế
kỷ. Sự xuất hiện của hệ thống vihāra (hệ thống tu viện và kinh viện)
xung quanh thời kỳ kỷ nguyên là những gì thúc đẩy các tổ chức Phật giáo
ứng dụng một ngôn ngữ phù hợp đối với những ân nhân của họ.
Điều này có thể hiểu được rằng khi các
tổ chức như tu viện phát triển và đòi hỏi nguồn thu nhập ổn định đáng
kể mà họ phụ thuộc nhiều hơn vào giới thượng lưu của xã hội chứ không
phải là thường dân. Mặt khác, tổ chức của Kỳ na giáo dựa nhiều vào
thường dân, như thế có thể hiểu được rằng tại sao sự chống đối của họ
đối với tiếng Sanskrit. Nói cách khác, Phật giáo đã trải qua một quá
trình trưởng thượng hóa thông qua việc áp dụng tiếng Phạn và sự phát
triển của hệ thống tu viện cầu kỳ (trái ngược với lối sống ăn xin, vô
gia cư của nhiều thế hệ trước). Các vấn đề thế tục liên quan với sự
tương tác đối với triều đình hoàng gia thuộc Bà la môn có phải là những
gì đã khiến Phật tử sử dụng ngôn ngữ của một cộng đồng thường thù địch
với họ:
Họ đã không nghĩ như vậy bởi vì họ
thích tiếng Sanskrit, hoặc vì họ thích các Bà la môn những người sử dụng
ngôn ngữ đó. Họ cũng không làm như vậy vì một vài giá trị vốn có mà
ngôn ngữ này được quyền sở hữu. Họ đã làm như vậy bởi vì họ cần thiết để
bảo vệ những lợi ích của họ tại các cung điện của hoàng gia trong tiếng
Sanskrit. Họ đã phải sử dụng tiếng Sanskrit tại các cung điện vì những
Bà la môn đã có thể giữ cho mình một vị trí trung tâm tại các cung điện
bằng lối sử dụng các kỹ năng không thể thiếu của họ, không phải vì những
nhà cầm quyền đã ủng hộ việc "cải đạo" sang Bà la môn giáo. Điều này,
như tôi có thể nhìn thấy, là lời giải thích hợp lý nhất về sự thay đổi
khó xử khác của ngôn ngữ này. 3
Bronkhort cũng cho thấy điều này có
thể hiểu rằng tại sao nhiều tác giả nổi tiếng và thành công đầu tiên như
Nāgārjuna (Long Thọ) đều có nguồn gốc Bà la môn. Được sinh ra và lớn
lên trong một môi trường tiếng Sanskrit và được đào tạo để viết lưu loát
bằng ngôn ngữ nói, họ đang ở trong một vị trí đặc quyền để trở thành
những đại diện của tôn giáo. Trong khi nhiều đồng nghiệp của họ là không
có nghi ngờ gì đối với sự uyên bác của họ, trong các thế kỷ đầu của kỷ
nguyên có một nhu cầu bức thiết phải viết bằng tiếng Sanskrit và điều
này đã tạo nên cơ hội đặc biệt cho các Phật tử có nguồn gốc Bà la môn.
Một cách tình cờ, điều này cũng thể hiện như một phương tiện xuyên qua
đó tư tưởng và đạo đức Bà la môn đi vào vào tư tưởng Phật giáo. Ta có
thể thấy rõ điều này trong các tác phẩm như Abhidharmakośa-bhāṣya (A Tỳ
Đạt Ma Câu Xá Luận thích) và Upāsaka Śīla Sūtra (Ưu Bà Tắc Giới Kinh)
trong đó xác định hành vi tình dục cũng giống như tác phẩm Arthaśāstra
(luận về bổn phận, hoặc là kỉ luật của sự sung túc về vật chất) của
Kautilya, nơi bất kỳ hành động nào giao cấu ngoài hôn phối được xác định
là hành vi sai trái.
Những người ủng hộ Vedas coi tiếng
Sanskrit là một ngôn ngữ thiêng liêng (daivī vāk) và trong thời gian đó,
Phật tử đã ứng dụng nó giống như đến để thấy nó trong một cảm hứng
tương tự. Sanskrit trở thành ngôn ngữ Nguyên thủy vì từ nó các sự việc
khác xuất hiện, và quan trọng hơn thường được coi là ngôn ngữ chính xác
(đặc biệt phái Theravada cho rằng Pāli là ngôn ngữ ban đầu, trong khi Kỳ
Na Giáo tin rằng nó là ngôn ngữ Ardha-Magadhi thiêng liêng của họ).
Đáng chú ý là một số người nước ngoài
cũng đã bị thuyết phục về ngôn ngữ này. Ít nhất một nhà sư Trung Quốc
nổi tiếng của thời cổ đại cho rằng, thực tế, tiếng Sanskrit là ngôn ngữ
của các vị thần. Nhà sư hành hương nổi tiếng và cũng là Học giả Huyền
Trang (602-664) 玄奘, người viếng thăm Ấn Độ giữa năm 633-645 đã nhanh
chóng chỉ ra những thể thức "trọng âm" của ngôn ngữ mà ông đã không chấp
thuận. Những ký tự sai- 訛 ("trọng âm") xuất hiện 93 lần trong 大唐 西域 記
(Đại Đường Tây Vực Ký). Ông mô tả ngôn ngữ của Ấn Độ như sau:
《大唐西域記》卷2:「詳其文字,梵天所製,原始垂則,四十七言也。寓物合成,隨
事轉用。流演枝派,其源浸廣,因地隨人,微有改變,語其大較,未異本源。而中印度特為詳正,辭調和雅,與天同音,氣韻清亮,為人軌則。隣境異國,習謬成
訓,競趨澆俗,莫守淳風。」(CBETA, T51, no. 2087, p. 876, c9-14)
《Đại Đường Tây Vực Ký》quyển 2:「Xét văn
tự kia,được thành lập bởi Phạm Thiên, được truyền thừa từ nguyên thỉ,
gồm có bốn mươi bảy từ (chữ cái).vạn vật hợp thành, tùy sự mà chuyển
dụng, lưu diễn ngọn ngành, nguồn của nó sâu rộng, tùy theo vùng miền có
sự thay đổi, nói chung là ngôn ngữ kia chưa có sai khác với bổn nguyên.
Nhưng ở Trung Ấn đặc biệt dùng một cách rõ ràng, ngôn từ hòa nhã, cùng
với chư Thiên đồng âm, khí vận thanh cao, là mô phạm cho người. Những
quốc gia lân cận dùng sai thành lệ, xu theo thói đời nên không còn chữ
xác thực. (CBETA, T51, no. 2087, p. 876, c9-14)
Đó là nhận xét cuối cùng có thể bắt
nguồn từ tác Phẩm Vākyapadīya (Từ ngữ trong một câu) của Bhartṛhari đã
ghi nhận ngôn ngữ thần thánh đã bị sai lạc do người sử dụng không thích
hợp. Huyền Trang là một người sử dụng thành thạo tiếng Sanskrit và có
khả năng tiếp cận với các văn phạm truyền thống trong nghiên cứu của ông
về ngôn ngữ. Các dân tộc vùng biên giới nói bằng lối diễn đạt hoang sơ
của ngôn ngữ là một sự phản ánh quan niệm phổ biến rằng tất cả các
phương ngữ ban đầu bắt nguồn từ một vị thần hoang dã. Rõ ràng Huyền
Trang tin tưởng như vậy.
Chính chữ Sanskrit đã giữ tầm quan
trọng đặc biệt tại Đông Á. Ở Trung Quốc và Nhật Bản Chữ Tất Đàn
(Siddhaṃ script) đã được sử dụng đặc biệt cho các phương tiện bí truyền,
và ngài Huyền Trang đã thành thạo với nó. Nó đã trở nên nổi bậc một
cách đặc thù với sự du nhập của Mantrayāna (Mật tông) vào Trung Quốc thế
kỷ thứ 8. Vào thời gian ngài Kūkai (Không Hải 774-835) đến Trung Quốc
năm 804 thì nó đã là ngôn ngữ được học một cách phổ biến. Ngài Kukai đã
dành phần đầu thời gian của mình ở Trường An cho việc học tiếng Sanskrit
tại tu viện Liquan-si (醴泉寺-Lễ Tuyền Tự) dưới hai vị Sư Ấn Độ: Prajñā và
Muniśrī, kiến thức từ sự nghiên cứu này được ngài đem về Nhật Bản. Ngay
cả ngày hôm tại Nhật Bản ngôn ngữ này là một thành phần cốt lõi của đối
với sự thực hành của nghệ thuật và Tông phái Shingon.
Đáng chú ý là chữ viết và từ vựng
tiếng Phạn giữ vai trò giá trị biểu tượng lớn cho các hành giả, mặc dù
chính ngữ pháp đã không được nghiên cứu rộng rãi. Tuy nhiên, Âm học Phạn
ngữ đã tác động đến sự hiểu biết của Trung Quốc đối với ngôn ngữ riêng
của chúng. Nhà bác học nổi tiếng Shen Kuo 沈括 (Thẩm Hoạt 1031-1095) đã
nhận thức là ngay cả giai đọan của ông ta cũng ảnh hưởng Sanskrit đối
ngôn ngữ học Trung Quốc. Trong tác phẩm của mình: Dream Pool Essays
夢溪筆談 (Mông Khê Bút Đàm), ông ta nói như sau:
音韻之學,自沈約為四聲,及天竺梵學入中國,其術漸密。
Nghiên cứu âm vị học, tự Thẩm Ước gồm bốn ngữ âm, đến khi Thiên Trúc Phạn học vào Trung Quốc, học thuật kia dần dần chặt chẽ.
Các phương pháp dành cho việc nghiên
cứu về Ngữ âm học đã từng bước được thanh lọc từ khi Shen Yue [Thẩm Ước
沈約 441-513] phối hợp với bốn âm ngữ và khi các ngành học thuộc tiếng
Sanskrit Ấn Độ đã đến Trung Quốc.
Trở lại Ấn Độ, ở một vài khoảng thời
gian sau trong lịch sử Phật giáo hầu như đã có một phản ứng chống lại sự
ưu đãi rộng rãi còn tồn tại đối với tiếng Sanskrit, ít nhất là đối với
một số người ủng hộ của Kim Cương thừa. Đây không phải là sự phát sinh
bất thường mà là xu hướng Kim Cương thừa dành cho sự thích ứng thực tế
và bất đồng quan điểm có thiện chí. Vesna Wallace giải thích như sau:
Tác giả của Vimalaprabhā (Sớ giải Tịnh
quang minh) tuyên bố lý do của của mình đối với sự mô tả chi tiết những
đặc điểm của kālacakra-maṇḍala (Mạn đà la Thời luân) trong tác phẩm
Kālacakratantra (Thời luân đát-đặc-la ) tóm tắt như sau, như các kinh
văn đã được giảng dạy bởi ngài Mañjuśrī (Văn Thù) trong Ādibuddhatantra
(A-đề Phật Đát-đặc-la), là để loại bỏ các chấp ngã (ahaṃkāra) của các
triết gia những người đề xuất giai cấp phân biệt (Jati-vādin). Những
người nghiêng về truyền thống Kalachakra ở Ấn Độ được coi là tầng lớp
thành kiến hầu hết có liên quan mật thiết với các học thuyết Hindu về
một vị thần cá nhân và sáng thế (Īśvara) và của một tự ngã (ātman) tồn
tại một cách cố hữu và độc lập. Họ cũng nhận thấy tầng lớp thành kiến
như việc tạo ra sự thiên vị của ngôn ngữ về việc ca ngợi sự xuất sắc của
ngôn ngữ Sanskrit và thể hiện thái độ khinh thị đối với ngôn ngữ mẹ đẻ.
Họ đã nhận thức đầy đủ về các phương pháp đặc trưng lý thuyết, thực
hành, và ngôn ngữ trong Kālacakratantra mâu thuẫn với chuẩn mực văn hóa,
tôn giáo và xã hội của dòng truyền thống chính Bà la môn. Những sự giải
thích tính đặc điểm tác phầm Kalachakra không chỉ trong phạm vi của
hoạt động chuyển biến và lý thuyết cứu độ học của Kālacakratantra mà còn
về mặt lý thuyết xã hội của Kālacakratantra. Tác phẩm này giải thích
không chính xác về mặt ngữ pháp và từ vựng lý thuyết hỗn tạp thuộc từ
vựng của tiếng Sanskrit của Kālacakratantra như:
(1) Các phương tiện khéo léo của việc
bứng gốc tính kiêu ngạo đối với những ai chấp thủ đẳng cấp xã hội, kiến
thức, và những ngôn từ chuẩn mực, và (2) các phương tiện khéo léo của
việc xây dựng giáo lý Phật giáo Kim Cương thừa có khả năng tiếp cận với
nhiều đối tượng, trong đó nói những ngôn ngữ và tiếng địa phương khác
nhau. TrongVimalaprabhā khẳng định rằng con người cần khắc phục đuợc tri
giác sai lầm về việc chấp thủ tự ngã đối với “ngôn ngữ Sanskrit địa
phuơng, duy nhất" và giảng dạy như được xác nhận bởi Mahabharata, 6, 1,
84 rằng chỉ một từ duy nhất được phát âm tốt thì có thể đạt được ước
muốn sinh lên cõi trời. Nó buộc tội các nhà hiền triết Bà la môn về việc
viết về chư Pháp của Bhagavadgīta (Chí Tôn Ca) Siddhāntas (Luận
Tất-đàn-đa), và Purāṇas (Phú-lan-na) bằng ngôn ngữ Sanskrit không ngoài
việc tham lam đối với vật chất. Nó khẳng định rằng Bà la môn đã viết
những kinh sách bằng tiếng Sanskrit để ngăn chặn tầng lớp Vaiśyas,
Śūdras, và các giai cấp thấp khác của xã hội từ việc đọc kinh sách của
họ và đạt được kiến thức về Phật pháp và các nhiều lãnh vực khoa học
khác. Vimalaprabhā giải thích thêm rằng các tác giả Bà la môn của những
kinh điển này biết rằng nếu giai cấp thấp kém đạt được kiến thức, họ sẽ
không còn tôn kính các Bà la môn vì những phẩm chất đặc biệt của họ (vốn
có). Nó phản chiếu động lực ích kỷ của các nhà hiền triết Bà la môn đầy
kiêu ngạo đến động lực vị tha của chư Phật và Bồ Tát, những vị giải
thoát từ sự thiên vị ngôn ngữ và sự kỳ thị xã hội. Chư Phật và Bồ Tát
không độc quyền sử dụng ngôn ngữ Sanskrit để giảng dạy và biên tập giáo
lý Phật giáo, vì họ cũng dùng đến "ngôn ngữ toàn trí" (sarvajña-Bhasa),
sử dụng sự biểu đạt của thổ ngữ và nhiều ngôn ngữ của các nước khác
nhau. Dựa vào ý nghĩa của giáo lý, các ngài sử dụng thổ ngữ khác nhau và
ngữ pháp khác nhau để mang đến cho mọi người sự tỉnh thức tâm linh. Dù
đặc đặc trưng của ngôn ngữ phổ quát của chư Phật là được tìm thấy trong
các tác phẩm của Đại thừa, hầu hết nó được thể hiện hầu hết trong các
giáo phái Mật tông Phật giáo.
Trong Paramādibuddhatantra
(Kālacakramūlatantra: Thời luân căn bổn nghi quỹ) cũng tán thành việc sử
dụng một ngôn ngữ dung hợp về mặt từ vựng sẽ có lợi cho mọi người thuộc
mọi tầng lớp xã hội, các nhóm dân tộc, và các khuynh hướng tâm linh.
Theo Paramādibuddhatantra, chính Đức Phật đã bày tỏ thiện cảm này trong
những lời sau đây:
Khi người ta hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ địa phương, việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật là gì?
Trên trái đất, một viên ngọc quý được
gọi bằng nhiều tên khác nhau từ nước này sang nước khác, nhưng viên ngọc
quý không có sự khác biệt với chính nó.
Tương tự như vậy, những người trình
bày Pháp thanh tịnh khác nhau của ta dùng các thuật ngữ đa dạng phù hợp
với mục đích lợi ích đối với chúng sinh. 4
Vì vậy, đến khi có một sự phản ứng
trong phương hướng đối lập, nhân đây tối thiểu một số Phật tử từ chối sự
ưu tiên dành cho tiếng Sanskrit và cũng như nhiều sự nổi bậc đối với
Bà-la-môn hóa. Vào giai đoạn cuối của Kālacakratantra (khoảng đầu thế kỷ
thứ 11), điều đáng chú ý đặc biệt ở đây là vì Phật giáo tại Ấn Độ đã bị
rơi vào một thời gian dài suy yếu và phân rã. Ngay cả ba thế kỷ trước
khi những nhà Chiêm bái như ngài Huyền Trang và Hyecho 慧 超 (Huệ Siêu
704-787) ghi chép rằng các Thánh địa Phật giáo như Kushinagar và
Kapilavastu là nơi phế tích hoang vắng. Như tôi đã trình bày trong một
bài trước, tôi nghi ngờ rằng trong thời gian ngài Huyền Trang và Huệ
Siêu viếng thăm và cho biết những Thánh địa Phật giáo từ lâu đã ở trong
tình trạng hư hỏng tại Ấn Độ. Nếu có những tín đồ mộ đạo hoặc số lượng
lớn các tu sĩ Phật gáo họ đã có thể để duy trì các Thánh tích, nhưng
thay vào chúng được mô tả như bị bỏ rơi hầu hết.
Một vài thế kỷ sau, Kālacakratantra
(Thời luân đát-đặc-la: một giáo phái của Kim cương thừa) nổi lên trong
một môi trường nơi mà Phật giáo thậm chí còn xa hơn trong phân rã của
nó, chưa nói đến tư tưởng Hindu chi phối và các cuộc xâm lược vào Ấn Độ
từ phía Tây. Ở đó, những quan điểm luận chiến nhằm vào hệ tư tưởng đối
thủ cùng với một sự chuyển động nỗ lực bài trừ tín ngưỡng lâu đời nhằm
chống lại sự độc quyền Sanskrit. Cho dù có thành công hay không, nó cũng
nói lên những mối quan tâm vào thời điểm đó và một nhận thức xuyên qua
một số người về việc đấu tranh giai cấp và phân biệt đối xử mà những
người theo giáo phái của Kālacakratantra đã tìm cách khắc phục.
Dường như Phật giáo Sanskrit vẫn duy
trì hình thức Bà-la-môn hóa nặng nề tại Ấn Độ cho đến sự sụp đổ cuối
cùng của nó. Phật giáo Sanskrit đã bị mất ở Ấn Độ, nhưng được bảo quản
trong thung lũng Kathmandu ở Nepal. Vào năm 1824, nhà ngoại giao người
Anh Brian Hodgson tìm thấy nhiều kinh văn tiếng Phạn của Phật Giáo tại
đây. Sự nghiên cứu kinh điển Sanskrit Phật giáo vẫn tiếp tục cho đến
ngày nay, và nhiều tầm quan trọng được đặt lên đối với kinh văn dành cho
Phật tử Đại thừa những người xem Ấn Độ như bà mẹ đã sinh ra truyền
thống của họ.
Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét lịch
sử về Bà-la-môn hóa của Phật giáo trên Tiểu lục địa và tất cả những ảnh
hưởng không chính thống chắc chắn đi kèm với nó, nhiều câu hỏi và nghi
ngờ có lẽ sẽ xuất hiện đối với giáo lý và tính hợp pháp cần phải được
giải quyết một cách trung thực. Đây không phải là để nói suông mà chúng
ta nên chủ động truy cứu và xác định những ảnh hưởng từ Bà la môn giáo
và sau đó lật tẩy chúng, nhưng đơn giản là thảo luận về giá trị và nguồn
gốc của chúng, và rồi tách nó ra một cách tự nhiên, giống như cách
chúng tôi đã kiểm xét Buddhism and Confucianism (Phật giáo và Nho giáo).
Trong tương lai, có lẽ chúng tôi có thể thẩm tra kỹ hơn một số ảnh
hưởng từ Bà la môn giáo trong Phật giáo.
Thích nữ Tịnh Quang chuyển ngữ
Footnotes:
1 Johannes Bronkhorst, Buddhism in the Shadow of Brahmanism Handbook of Oriental Studies (Leiden: Brill, 2011), 46.
2 Ibid., 124.
3 Ibid., 129.
4 Vesna A. Wallace, The Inner
Kālacakratantra: A Buddhist Tantric View of the Individual (New York,
NY: Oxford University Press, 2001), 119-120.
No comments:
Post a Comment