Rev.
Tri Ratna Priya Karuna
Nếu chúng ta đủ khôn ngoan để làm theo hướng dẫn này, chúng ta có thể tránh được những quyết định sai lầm có thể dẫn đến hậu quả ngoài mong muốn.. Và thay vào đó sẽ có thể đạt được tiến bộ hướng tới những mục tiêu tích cực trong quá trình đời sống chúng ta.
Tịnh quang Chuyển ngữ
Chủ đề của buổi pháp thoại của tôi hôm nay là vũ trụ học Phật giáo,
một mệnh
đề không xuất
hiện trong cuộc đàm thoại hàng ngày.
Vũ trụ học là gì? Từ điển định nghĩa nó như là một chi
nhánh của triết học liên
quan đến nguồn gốc, quy trình và cấu
trúc của vũ trụ. Điều này nghe có vẻ
giống như là một định nghĩa khá kinh khủng, sự khảo sát này có một chút liên quan
đến vấn đề chúng ta gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Trên thực tế, điều
ngược lại là đúng sự thật, vì một sự hiểu
biết về các hoạt động của vũ trụ
và định luật vũ trụ được bao hàm trong trong hình thái biểu lộ của nó,
có thể cung cấp cho chúng ta ý nghĩa con người
với sự hướng dẫn quý báu. Nếu chúng ta đủ khôn ngoan để làm theo hướng dẫn này, chúng ta có thể tránh được những quyết định sai lầm có thể dẫn đến hậu quả ngoài mong muốn.. Và thay vào đó sẽ có thể đạt được tiến bộ hướng tới những mục tiêu tích cực trong quá trình đời sống chúng ta.
Hơn nữa, vì trí
tuệ vô hạn của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni của chúng ta và chư Phật quá khứ
đã xuất hiện trên
trái đất từ lâu trước thời gian
của Ngài, chúng ta là những người thừa kế may mắn của
một truyền thống vũ trụ vĩ đại
tuyệt vời như vậy, điều này hoàn toàn che khuất các khái niệm
tương ứng trong các tôn giáo phương Tây. Ngay cả trước
khi thời gian của Đức Phật,
những
nhà hiền triết Ấn Độ và các
nhà tư tưởng gia
thông qua trí tưởng tượng, việc xử
dụng các quyền
năng siêu nhiên
- bình thường, và sư chiêm nghiệm của
sự
hiểu biết cổ xưa nhất được kế thừa từ thời tiền sử được xử dụng để đạt đến các
khái niệm về sự rộng lớn một cách vô hạn của thời gian và không gian cho
tất cả các mục đích thực tế mà họ đã đi dần đến các điểm vô cực.
Văn học Phật giáo rõ ràng minh chứng cho sự thực rằng Đức Phật, với tầm nhìn phi thường của mình, thanh tịnh và hoàn hảo sự hiểu biết này đối với phạm vi thực sự vô hạn của vũ trụ cũng như độ dài không thể tính toán của thời gian được bắt đầu trong quá khứ, hiện tại và tương lai đối với vòng sinh thành và hoại diệt của các lĩnh vực về hiện tượng tồn sinh đi trong chu kỳ của chính nó. Theo Đức Phật, sự bắt đầu của toàn bộ hiện tượng hiện hữu của vũ trụ được biết với khoa học, nhưng là sự thấp nhất của 31 cảnh giới, là khôn lường, nó không có sự khởi đầu có thể nhận thức.
Vũ trụ vật chất bao gồm
sự vô tận của các hệ thống
thế giới rải rác trong
không gian vô hạn, mỗi sự tồn tại và đi xuyên
qua thời gian vô thỉ và vô tận. Trong sự nỗ lực cung
cấp cho các đệ
tử với một số ý tưởng về
những số lượng lớn của thời
gian được yêu cầu cho sự tiến diễn đối
với kiểu sống của họ, Đức Phật tuyên bố rằng số lượng sữa
của những bà mẹ mà chúng ta uống và nước mắt mẹ đổ trong kiếp sống trước đây
là lớn hơn nước
bốn đại dương. Sự cao
quí, tầm nhìn rộng lớn và sự
triển vọng không giới hạn
bao hàm trong khái niệm Phật
giáo trong khi trái ngược với những quan niệm tâm địa nhỏ hẹp được
tìm thấy trong
văn học tôn giáo của
người Semitic, đặc biệt là Kinh
Thánh, có thể trong
những lời của một tác giả nổi bật nhất, "nó
có vẻ giống
như bước ra từ
một cabin không có cửa sổ và nhìn lên bầu trời
nửa đêm đầy sao".
Một chu kỳ vũ trụ có chiều dài hầu như không thể tính toán được gọi như một kiếp (Kalpa) hoặc Đại kiếp (maha-kalpa). Kiếp này được chia thành bốn giai đoạn ngắn hơn, mỗi giai đoạn thì rất dài và không thể đo lường ngay cả chu kỳ trong hàng
ngàn năm. Trong thời gian đầu tiên của một
kiếp, hệ thống vũ trụ tồn tại trước đó hoàn toàn bị phá hủy hoặc tiêu tán vào trong
các yếu tố cấu thành của nó. Đa số chúng sinh
cư trú trong
các hành tinh có sự sống khác nhau của nó
được tái sinh
vào cõi giới Phạm
Thiên, cõi
giới cao nhất và tinh tế nhất của hiện tượng tồn tại, được
thoát khỏi sự tiêu diệt hoặc sự tan rã. Khi giai đoạn thứ hai của Kiếp bắt
đầu, năng lượng còn lại của
vật chất, đại diện cho tổng số khách quan, và thế giới
Phạm Thiên và cư
dân của nó, đại diện chủ quan hoàn
thành, được phân lập từ
mỗi cái khác ở các cực đối lập của sự
tồn tại hiện tượng. Sự vắng mặt tương tác này tiếp tục cho đến khi giai đoạn
thứ ba của Kiếp bắt đầu chuyển động. Trong thời gian này hệ thống thế giới tái phát triển từ năng lượng còn
lại của vật chất, lúc này hầu hết chúng sinh trở về từ thế giới Phạm Thiên
để tái sinh trên
trái đất bao phủ bóng
tối và nước. Điều này dường như không có sự thích hợp
đối với tâm thức trong tình trạng chuyển tiếp, kể từ khi chúng sinh tiếp tục sống như họ đã từng
sống trước đó trong thế giới Phạm Thiên,
tự chói sáng, được nuôi dưỡng bằng trạng
thái sung sướng và không phân
chia thành hai giới tính khác
nhau.
Với sự băng qua một chu
kỳ dài của
thời gian rộng lớn, các điều kiện bắt đầu thay đổi. Sự cặn bọt, với
đặc
trưng như gạo sữa được sôi lên, bắt đầu tích tụ trên mặt đất mát
dịu, và các cư dân
trên mặt đất bắt đầu nếm thử và tận hưởng cảm
giác. Sự cảm giác thích thú mới này
dẫn đến tham ái và
sự phụ thuộc ngày càng tăng đối với các chất
cặn bọt cho dinh dưỡng. Chúng sinh ở mặt
đất tìm thấy ánh sáng ngày
xưa của họ, thân
thể nhẹ bổng thanh tế trở thành
nặng nề và cứng cõi, và hình
dạng
cùng với dáng vẻ bên ngoài có nhiều sự khác biệt. Dần dần, các vùng nước bao phủ trái đất rút xuống, sương mù phân
tán, mặt trời và mặt trăng
xuất
hiện rõ ràng ở trên những tầng trời.
Với sự tiếp tục của giai đoạn tiến hóa
này, đầu tiên, sự sinh trưởng bằng
những cây riêu, rồi những thực vật dây leo và
cuối cùng là xuất
hiện các loại ngũ cốc
ăn được. Khi chúng sinh học cách tồn
tại bằng những nguồn thực phẩm,
họ trở nên nhiều thô kệch, họ
mất đi ánh sáng và thần
thông của mình. Cuối cùng, họ bị
tách thành nhiều loài, cũng như biến thành hai giới tính nam và nữ. Sự
chia tách hai giới tính này
dẫn đến
lòng
ham muốn, đam mê và thù hận, và sự phát triển đồng thời của từng nhóm gia
đình, và tất cả các tổ chức của xã hội. Sự ghi chép những
cuộc đẫm máu của một vài nghìn năm cuối cùng đã làm chứng cho những sự kiện đó mà điển hình là giai đoạn cuối cùng của Kiếp thứ ba.
Giai đoạn thứ tư và sự
phân chia cuối cùng của một Kiếp tìm
thấy
trong hệ thống vũ
trụ còn lại ở giai đoạn của sự phát triển đã đạt được cho đến sự bắt đầu của Kiếp kế tiếp, trong
thời
gia này toàn bộ tiến trình được
lặp đi lặp lại một lần nữa. Cho dù chúng ta
thích nó hay không, chúng
ta đang ở mấp
mé giai đoạn thứ tư của Kiếp hiện
tại.
Nên biết rằng quá trình bất
khả tư nghì này
chứa bên
trong nó một sự nghịch lý đau buồn: Khi hệ thống thế
giới đi theo một con đường với sự tiến triển vật chất lớn hơn, mỗi bước đi lên trên mặt phẳng
vật chất thì kèm theo đó bằng một sự
chuyển xuống tương ứng của
sự
thoái hóa tâm linh hoặc tinh
thần. Nguyên tắc
này áp dụng cho toàn bộ hệ thống thế giới, trong đó hành tinh không đáng kể này đóng một vai trò nhỏ. Thêm nữa, hệ
thống thế giới này
bao hàm 10.000 thế giới.
Có rất nhiều hệ thống thế giới đó
và độ dài của một
đơn
Kiếp thật sự rất dài, sự xuất hiện của
một vị Phật là một sự kiện tương
đối hiếm hoi. Một số Kiếp được
gọi là Không
kiếp bởi
vì không có một vị Phật xuất hiện. Những
Kiếp khác may mắn hơn
có thể được sự gia trì bởi một
hay
nhiều Đức Phật. Hệ thống thế giới của chúng ta
có được phước báu bởi 28 vị Phật, trong đó có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong quá trình của nhiều
Kiếp. Kiếp mà chúng ta đang sống có
sự đặc thù của một phúc Kiếp bởi phước lành lớn của năm
vị Phật
xuất hiện: Kusanda (câu Lưu Tôn Phật),
Konagamana (Câu Na Hàm Mâu
Ni Phật), Kasyapsa
(Ca Diếp Phât), Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni Phật)
và Maitreya (Di Lặc Phật)- Vị Phật tương
lai.
Bây giờ chúng ta đề cập đến nhiều lọai
hữu tình đã tồn tại trong vũ trụ này,
cũng như trong vô số vũ trụ suốt trong những
giai đoạn thời gian vô hạn. Mặc dù thông thường được cho rằng sự
giác ngộ có thể xảy duy nhất đối với một người, có các
cảnh giới thọ sanh
có sự sống cao hơn và hạnh phúc hơn, chúng sinh được hưởng phước báu đẹp đẽ
hơn, có sự hạnh phúc và năng
lực lớn hơn phước báu của loài người. Tái sinh trong những cảnh giới này được dành riêng cho những con người
thực hiện thiện
nghiệp và có
đời sống đạo đức. Tuy nhiên,
những
chúng sinh ở các cõi trời này
không phải là trường cửu, và khi thiện
nghiệp đã hết, những
sinh
linh này sẽ được tái sinh lại
vào cảnh giới loài người.
Cảnh giới thấp hơn cõi người có nhiều mức độ của cuộc
sống đau đớn, bao gồm các cõi địa ngục khủng
khiếp, nơi mà những chúng
sinh đã tạo hành động tà ác
nên bị trừng phạt cho đến khi họ được phục hồi và được có cơ duyên
mong muốn đầu thai trở lại cõi người, và
điều duy nhất duy là
họ có thể đạt được giác ngộ và Niết Bàn.
Tuy nhiên, như chúng ta đã
thấy, thời gian và không gian hầu như vô
hạn trong phạm vi và tình
trạng của một chúng sinh trong bất cứ cuộc sống
cụ thể đều tùy thuộc vào ảnh hưởng của nghiệp từ kiếp trước. Năng lượng
nghiệp này xác
định sở thích, thái
độ của y, và
với một mức độ quan
trọng, hành vi và đặc trưng của y. Có ý chí tự do,
đó là tùy vào cá nhân, nếu y đầu hàng nghiệp lực tiêu cực đã đưa y đi vào thế giới này và không
có nỗ lực để khắc phục xu hướng ác của mình; trong trường
hợp này sự
tái sinh tiếp theo của y có thể sẽ không tốt hơn so với hiện tại. Mặt
khác, nếu cá nhân, với
sự
thúc dục đối với Phật tính của y, xuyên qua nhiều thành tựu trong việc tinh tấn duy trì và
phát
nguyện trong việc gột rửa bản chất của mình có nhiều điều
sai trái, và đưa nhận thức của
mình phát
triển đến một trình
độ cao hơn của lòng từ bi, trí tuệ và cái thấy sâu sắc, sự
tái sinh kế tiếp chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn, với
nhiều cơ hội hơn để tiến đến mục tiêu tối quan trọng-đó là sự giác ngộ.
Như vậy, cá nhân là hoàn toàn chịu trách nhiệm về số phận của mình. Tất cả chúng sanh do nghiệp lực mà chịu tái sinh với quá trình thân phận không ngừng thay
đổi được xác định hoàn toàn bởi sự lựa chọn
và hành động trước kia của họ trong
đời sống hiện
tại và quá
khứ. Đức Phật đã
không tuyên bố sự
thực ảm đạm của
vòng luân chuyển với sự đau
khổ và
bất như ý không thể tránh khỏi của nó có thể cứ tiếp tục và hầu như vĩnh viễn,
ngoài động lực rất trí tuệ và từ bi, ngài muốn những
đệ
tử ngài nhận ra rằng hai nguyên nhân khủng khiếp không thể tránh khỏi của
vòng
luân hồi là ái
dục và vô minh. Nếu chúng có thể được khắc phục xuyên qua việc đạt được
sự hiểu
biết và trí tuệ, sau đó có
thể đạt được sự giải thoát từ
điều kiện cho sự tái sinh tiếp
tục.
Sự giải thoát từ vòng sinh tử luân hồi này, dĩ
nhiên là Niết bàn (Nirvana).
Đức Phật đã diễn tả rộng về
những nguyên nhân của sự tái sinh với bài giảng nổi tiếng qua mười hai sự liên kết trong chuỗi nhân duyên được biết đến như Pratitya Samutpada. Duyên
sinh, hoặc định luật của
Phật giáo về đạo đức nhân quả, là
được thể thể hiện trong mười hai sự liên kết hoặc những điều kiện căn bản dẫn đến sự đau khổ tiếp
tục và sự trói buộc để tái sinh như thế. Mỗi duyên phụ thuộc vào cái trước nó. Vì vậy, khi vô minh chấm
dứt, hành chấm dứt, ý thức chấm dứt v.v…rồi đến con
đường chấm dứt lão tử khi sự
tái sinh không còn.
Sau khi Đức
Phật
Thích Ca Mâu Ni nhập
vào cõi Vô dư Niết bàn, tuệ
giác của ngài về luân hồi sinh tử, chu kỳ của kiếp sống, kết hợp với
mười hai nhân duyên được thể hiện như một biểu đồ, thường được xây dựng
như một bức tranh chi tiết, được gọi là bánh
xe của đời sống (bên
dưới). Một
cách đơn giản, nó đại diện cho kịch bản về sự lựa chọn và hậu quả cá nhân. Như chúng ta có thể nhìn thấy từ biểu đồ tôi
đang cầm, các bánh xe được giữ trong miệng và móng vuốt của Mara
(quỷ vương), trong trường
hợp này y
đại diện cho sự vô thường và cái chết. Ở vòng ngoài của bánh xe, chúng ta thấy mười
hai nhân tố hoặc những sự liên kết trong chuỗi nhân
duyên. Ở
chính giữa, chúng ta thấy
sự tiêu biểu thông thường của ba độc: các con gà trống tượng trưng cho sự
tham muốn, con rắn tượng trưng cho sự tức giận, hận
thù, và con lợn tượng trưng cho ảo
tưởng. Những chất độc
này được coi
là lực lượng thúc đẩy của vòng luân chuyển. sự hưởng ứng của cá nhân đối
với các động
lực này phát sinh nghiệp lực-quyết định vị trí trên bánh xe mà y sẽ tái
sinh.
Khi chúng ta khảo sát biểu đồ, chúng
ta có thể thấy rằng có sáu
cõi chúng sinh luân
hồi. Tái sinh vào cõi trời, cõi A
tu la, hoặc cõi người là
một phần thưởng cho đời sống đạo đức
và những
hành vi tốt, trong khi tái
sinh vào cõi thú vật, cõi
ma đói (ngạ quỷ) hoặc cõi địa ngục có thể được coi là
hình phạt tương ứng vì
đời sống trước làm hại người khác và đắm mình trong vô minh và tội lỗi, trong khi không tạo nên sự nỗ lực để
phát triển và đạt được một trình độ cao hơn của ý thức. Tuy
nhiên, như tôi đã nói trước
đó, cư ngụ trong địa ngục có thể kéo dài thời
gian khác biệt, nhưng may mắn thay, không phải mãi
mãi. Tái sinh vào ba cõi thấp này có thể
được chiếu cố bởi lòng từ của Đức Phật, giống
như các hình thức giảng dạy và phục hồi cho
họ, vì thế sau khi nợ
nghiệp của họ đã được trả xong, họ sẽ có thể trở lại địa vị con người.
Cõi người, mặc
dù về mặt kỹ thuật thấp hơn cõi trời, hoặc cõi A tu là quan trọng hơn, tuy
nhiên cõi người có thể được tăng trưởng trí tuệ và giới hạnh.Như đã đề cập trước đó, chúng sinh ở cõi trời tái sinh ở hai cảnh
giới cao nhất và cư ngụ ở đó chỉ là tạm thời như một phần thưởng đối với những hành vi xuất
sắc có công trong
quá khứ. Tuy nhiên, khi mà thiện nghiệp hết rồi, họ có thể
thác
sinh vào cõi thấp hơn. Sự
trục xuất từ trạng thái phước lạc và đặc
quyền cũ này của họ này có thể
là sự vô cùng đau đớn.
Vì vậy, tất cả các cõi luân hồi sinh tử với
tính chất ngắn ngủi, đau khổ, và cái chết cuả chúng là bất như ý. Chỉ
có một mục tiêu, đó là
sự
vĩnh viễn và giải
thoát hẳn từ sự
đau khổ, là chân giá trị đạt
được. Đây là sự
thoát khỏi hoàn toàn bánh xe của
cuộc sống (luân hồi). Đây là Niết Bàn, giải thoát khỏi sự tái sinh, hoàn toàn vượt thoát vòng
tròn ác nghiệt của sự tồn tại mà chúng ta gọi là luân hồi sinh tử
(samsara).Vì vậy, trong
một tuyên ngôn đã vang dội qua các thời đại, Đức
Phật đã vung
mạnh sự thách đố với
mỗi người qua
lời
dạy : "Đây là con đường dẫn
đến sự
chấm dứt khổ đau. Hãy bước lên nó”.
No comments:
Post a Comment