Nói đến tôn giáo, không ai không nhận
ra rằng đó là một hệ thống được hợp thức hóa qua niềm tin của con người, đặt niềm
tin làm căn bản, mà niềm tin đó vượt ra ngoài giới hạn giác quan và sự suy tưởng.
Phật giáo cũng là một bộ phận trong đại bộ phận của Tôn giáo-như một hình thái
cần phải có của xã hội, vậy phải chăng Đạo Phật là một tôn giáo như bao nhiêu
Tôn giáo khác?
Để xác minh điều này là phật tử chúng ta
không thể không biết được chủ thuyết mà mục đích cùa Phật giáo đã hơn hai nghìn
năm trăm năm truyền bá và phát triển. Căn cứ vào định nghĩa thông thường thì danh từ tôn
giáo được xuất hiện sớm nhất trong tiếng Latin là “religio - Anh ngữ là
“religion” - được giải thích rằng: “an organized system of beliefs and rituals
centering on a supernatural being or beings”, nghĩa là: Tôn giáo là một hệ thống
có tổ chức thuộc về tín ngưỡng và lễ nghi mà con người đặt trọn niềm tin vào một
Đấng siêu nhiên hoặc những Thần linh mà họ chưa bao giờ thấy được. Với ý nghĩa
này, thì tôn giáo chỉ là niềm tin – tin tường vào một điều ngoài khả năng nhận
thức thông thường của con người – cho nên đối tượng của lòng tin này vốn có một trong hai: Một là Monotheism-nhất thần giáo; hai là Polytheism- đa thần giáo.
Nhất thần giáo là tôn giáo của những tín đồ chỉ tin vào một thần linh hoặc một
đấng sáng tạo duy nhất; Đa thần giáo là niềm tin dựa vào nhiều thần linh có khả
năng ban bố phúc lành xuống cho tín hữu. Vậy thì nếu theo nghĩa tôn giáo như trên
thì Phật giáo là Nhất thần hay Đa thần giáo? Và chủ thuyết của Đạo Phật là
Monism-Nhất thần luận hay Pluralism-Đa thần luận?
Phật giáo không Nhất thần hay Đa
thần, Đạo phật mời chúng ta đến để mà thấy không phải để mà tin. Ngay buổi đầu
lập giáo – giáo lý “Tam chuyển thập nhị hành” mà Đức Phật đã giảng cho năm anh
em Kiều Trần Như đã chứng minh được điều ấy, đó là Thị chuyển, Khuyến chuyển và Chứng
chuyển:
Lần thứ nhất, Ngài trình bày rõ
ràng về pháp Tứ đế - Bốn sự thật tại vườn Lộc Uyển gọi là “Thị chuyển”:
Này các ông:
Đây là khổ,
Đây là nguyên nhân
khổ đau,
Đây là Niết bàn,
Đây là con đường
dẫn đến Niết bàn.
Lần thứ hai, Ngài khuyên anh em
Kiều Trần Như cần hiểu rõ về pháp Tứ Đế, gọi là “Khuyến chuyển”.
Đây là khổ, các ông
nên biết,
Đây là nhân khổ, các ông
nên đoạn,
Đây là Niết bàn,
các ông nên chứng,
Đây là đường đến
Niết bàn, các ông nên tu.
Lần thứ ba, Ngài chứng minh rằng
Ngài đã thể nhập pháp Tứ Đế, gọi là “Khuyến Chuyển”:
Đây là khổ, ta đã
biết,
Đay là nhân khổ,
ta đã đoạn,
Đây là Niết bàn.
ta đã chứng,
Đây là đường đến
Niết bàn, ta đã tu.
Như thế “Tam Chuyển Thập nhị hành”
đã phổ quát toàn bộ giáo lý Đức Phật thấy biết như thật. Niết bàn là Diệt đế, là
hết khổ não, và Đạo đế là đường đến Niết bàn bằng Tám con đường chân chánh, trong
đó Chánh kiến – cái thấy đúng như thật được tiêu biểu vị trí hàng đầu; sự thật
như thế nào thì Phật giáo yêu cầu hàng Phật tử phải thấy như thế ấy. Vậy thì sự
thật đó là gì? Là vô thường, khổ và vô ngã. “Vô thường” là mọi vật không cố định.
Luôn luôn thay đổi, “khổ” là vì con nguời không chấp nhận sự thay đổi đó. “Vô
ngã” là cái “tôi” và sự vật không có một chủ thể độc tôn, độc lập tồn tại. Khi
nào chúng ta buông xả hết sự tham đắm vào cái “tôi” thì đó là Niết bàn hiện hữu.
Do đó Phật giáo không có đối tượng tín ngưỡng, có chăng chỉ là bóng dáng của tâm
lưu xuất. Lòng tin của người Phật tử là sự tin vào chính khả năng giác ngộ của
mình, Đức Phật từng nói: “Anh hãy tin như tôi nắm trái xòai trong lòng bàn tay
tôi,” khi bàn tay được mở ra thì niềm tin không còn vấn đề nữa.
Nói thế không có nghĩa là chúng
ta tự mãn, tin vào khả năng ý chí là tin vào tác động của lý nhân quả vì nhân và
quả là hai yếu tố then chốt làm nên cảnh giới khổ đau hay an lạc của con người,
mở đầu trang Kinh Pháp Cú Đức Phật đã thuyết:
Tâm dẫn đầu các
pháp
Tâm làm chủ tạo
tác
Nếu nói hay hành
động
Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ theo
sau
Như xe theo vật
kéo.
Nếu nói hay hành
động
Với tâm tư thanh
tịnh
Hạnh phúc sẽ
theo sau
Như bóng không rời
hình. (Bản dịch của HT. Minh Châu)
Lý nhân quả được soi sáng qua
Kinh điển không ngoài sự khởi động của tâm ý, và thế giới được hình thành đều
qua nhận thức của tâm. Một chúng sanh nhỏ nhoi hay một vị Phật quang minh chiếu
diệu đều bắt nguồn từ bản tâm vô tướng đó:
Càn khôn tận thị
mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao
hàm giới tử trung.
Cả càn khôn đều ở trên đầu một sợi
lông, và trong một hạt cải hàm chứa hết thảy trăng sao, mặt trời tinh tú…do đó
Phật tánh vốn không có sự phân chia và ngăn ngại. Nói như Platon: “Vũ trụ đều có
một nguồn gốc chung,” và Đức Phật từng tuyên bố: “Ta là Phật đã thành còn chúng
sanh là Phật sẽ thành” đã hàm chứa lòng tự tin mãnh liệt.
Trong kinh Kalmata kể rằng: Một
hôm có người đến tìm Phật và hỏi Ngài: “Bạch Đức Thế Tôn các thầy Bà la môn và
ngoại đạo họ đều nói với chúng con rằng chỉ có lời họ là đúng chân lý mà thôi.
Bạch Ngài, chúng con vô cùng phân vân không biết đâu đúng đâu sai, và nên theo
bên nào và bỏ bên nào?” Đức Phật bảo: “Ngươi đừng vội tin theo ai cả, những gì
mà ngươi đã thực nghiệm sâu xa và hợp lý trí xét đoán của ngươi, có thể đem lại
hạnh phúc cho bản thân và người khác – thì đó là chân lý!”
Phật giáo chủ trương “duy tuệ thị
nghiệp” lấy trí tuệ làm sư nghiệp - sự nghiệp đó là gì? Là giải thoát tất cả nổi
khổ đau do vô minh vụng dại của con người gây ra, và chính con người phải tự đứng
lên chứ không ai cứu rỗi được hết. Pascal nói: “Trong tất cả các tôn giáo, Phật
giáo đồng duy nhất trong lịch sử nhân loại bác bỏ sự hiện hữu của cái gọi là
“linh hồn,” bản ngã hay Atman. Ngài từng nói, tin tưởng vào linh hồn là nguyên
nhân của tất cả mọi phiền não bắt nguồn từ cái ta. Vì những quan điểm sai lầm này
mà tất cả tội lỗi đã xảy ra trên thế giới.”
Tinh thần của Đạo Phật vốn vô ngã
cho nên không có một giáo điều nào gọi là tuyệt đối. Đức Phật là vị thầy dẫn đường
– Kinh điển không phải là tối hậu thư mà chỉ là phương tiện. Vì để thích ứng
trong nhân gian nên Phật giáo cũng hình thành như một tôn giáo với ba bộ phận là:
Triết học, Huyền thoại và Nghi lễ. Tuy nhiên triết học của Phật giáo là triết học
thực tu, thực chứng và thực kiến, không phải là dấu hỏi chấm lửng. Huyền thoại
của Phật giáo là những sử tích và chứng tích về lòng vô ngã vị tha của chư Phật
và Bồ tát. Nghi lễ của Phật giáo chỉ là phương tiện, tùy cơ , chứ không cứu cánh.
Và người xuất gia phải có bổn phận giải thích cho hàng Phật tử rằng hình thức kính
lễ Tam bảo chính là phương tiện cần cầu giải thoát, buông xả tự ngã, giúp hành giả an tịnh
trong trạng thái nhất tâm thuần khiết – ngay đây khổ não được đoạn trừ.
Đức Phật dạy:
“Sanh là khổ liên
miên bất tận
Diệt ngã mạn đó
là hạnh phúc tối cao!”
Vậy chúng ta không cần thắc mắc Đạo
Phật là Tôn giáo hay không Tôn giáo - Phật giáo nói theo sự đơn giản của từ ngữ
là giáo lý Giác ngộ, giáo lý của một vị thầy có sự hiểu biết toàn diện, và giúp
cho con người phải tự mình thấy được sự thật của đời sống, và làm thế nào chính
mình giải thoát được nổi khổ đau trầm luân ấy bằng cái thấy chân thật , chứ không
phải là sự tin tưởng bâng quơ. Đức Phật khuyên các hàng đệ tử rằng: “Đừng vội
tin tưởng những điều gì được lập đi lập lại nhiều lần, đừng vội tin tưởng một
đìều gì được nhiều người đồn đãi, đừng vội tin tưởng một điều gì dù đó là luật
lệ đặt ra tự ngìn xưa, đừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là quyền năng
của bậc thầy hoặc là quyền lực của một nhà truyền giáo, đừng vội tin tưởng một điều
gì đó dù là bút tích của Thánh Nhơn….và này các con: hãy tự mình làm hòn đảo –
hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi!”
Qua những lời dạy trên, chúng ta
thấy rằng Phật giáo không phải là tôn giáo Thần quyền, Thần khải…Đạo Phật là tôn
giáo với chủ trương tôn vinh trí tuệ - mở ra một cuộc cách mạng vĩ đại lâu dài
để chuyển hóa toàn bộ tâm thức, phát động một cuộc lên đường bằng công phu nỗ lực
của tự tâm, tưởng vào khả năng tốt đẹp của chính mình và không trông cậy vào một
thế lực vu vơ bên ngoài. Chính vì thế hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, Đạo Phật
luôn luôn thích ứng với thời đại, với căn cơ con người mà nội thân giáo lý chưa
bao giờ bị biến dạng hay đồng hóa với bất kỳ ảnh hưởng nào.
No comments:
Post a Comment