Và giới cuối cùng của năm giới là 'từ bỏ việc
sử dụng các chất say, độc hại’, gây mất ý thức. Điều này có nghĩa là từ bỏ một
số loại như rượu và ma túy. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt trong cách sự phân
tích cửa những hướng dẫn này. Ở một số quốc gia Phật giáo sự giải thích của nó
có nghĩa là nhu cầu đối với sự tỉnh táo hoàn toàn, trong những điều khác, trong
một vài nơi khác nó chỉ là một sự nhắc nhở một vài sự điều độ trong việc sử dụng
những thứ này, trong trường hợp vì dùng liều lượng lớn, gây ra ngộ độc. Mọi người
đều có quyền tự do lựa chọn giữa hai cách giải thích này.[1]
Các chất độc hại hay chất kích thích như bia,
rượu, cocaine và heroin khiến cho chúng ta mất lý trí, có những ảnh hưởng bất
thiện đối với những người xung quanh chúng ta - không có khả năng nhìn thấy kết
quả của các hành động ma chúng ta gây nên. Uống say là một cách cố tình làm cho
chúng ta trong tình trạng đánh mất sự nhận thức chính xác. Giới thứ năm hướng dẫn
quan sát các nguyên nhân và tác động trong hành vi tiêu dùng đối với rượu và
các chất nghiện ngập như ma túy, và giúp Phật tử hướng tới hành động lành mạnh.
Rượu và ma túy là nguyên nhân rõ ràng nhất của việc mất lý trí mãn tính, thiếu
đạo đức và trách niệm, không kềm chế được ham muốn, không biết hổ thẹn, không
nhận chân được đúng và sai trong hành động và dễ dàng bị khiêu khích, thậm chí
giết người.
Uống say không phải là một phần của văn hóa Phật
giáo, mặc dù nó dường như đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện
đại. Việc tiêu thụ rượu đã được thịnh hành trước và trong thời Đức Phật, nhưng
ngài không bao giờ chấp thuận đối với sự thực hành. Thực tế hiện nay là một cái
gì đó thường được thực hành không nhất thiết có nghĩa rằng nó là tốt và lành mạnh.
Những người ủng hộ uống bia, rượu là một yếu tố để thúc đẩy tình bạn và đối tác
nhưng quên mất thực tế rằng rất nhiều tình bạn đã bị chết đuối trong những chất
say. Sự cãi vã, xung đột và những hành vi ngỗ ngược thường bắt nguồn từ các chất
tiêu thụ đồ uống có cồn đại diện làm chứng cớ rõ ràng của trạng thái đê tiện của
họ dưới ảnh hưởng của các chất say. Tình hữu nghị chỉ được thiết lập dựa vào
lòng từ bi và hiểu biết lẫn nhau chứ không dựa vào bia, rượu. Uống rượu chỉ có
thể tạo ra một bầu không khí chung phấn khích của những người uống rượu với
nhau (và có thể là một mối phiền toái cho những người không uống), nhưng nó
không bao giờ là một điều kiện cần thiết cho mối quan hệ giữa các cá nhân.
Thông thường, người ta sử dụng rượu như một cái cớ để say. Theo sự thống kê về
sự bất ổn của gia đình và vã hội, tỷ lệ về ly hôn, tại nạn gia đình, tai nạn
giao thông, bạo lực, và tội phạm luôn gia tăng theo tình trạng nghiện ngập và
ma túy.Ngoài ta tất cả bệnh lý và sức khỏe của người nghiện rượu luôn vẫn được
cảnh báo bởi các chuyên gia y học. (https://www.niaaa.nih.gov/alcohol-health/).
Đức Phật đã mô tả việc nghiện các chất say là
một trong sáu nguyên nhân của sự đổ vỡ. Nó dẫn đến sáu nhược điểm chính: mất mát của cải, tranh
chấp và xung đột, nghèo khổ và bệnh tật, gốc rễ của sự ô nhục, hành vi không biết
xấu hổ và không đứng đắn, và làm suy yếu sự thông minh và khả năng tinh thần. Ngài
cũng đã đưa quy tắc riêng để tránh việc sử dụng các chất say sưa bởi vì chúng
là những nguyên nhân gây ra thất niệm (pamada). Thất niệm có nghĩa là loạn tưởng,
trạng thái thiếu vắng đạo đức, không có khả năng phân biệt điều nào đúng hoặc sai.
Đó là sự đánh mất trạng thái sáng suốt, tỉnh giác, chánh niệm (appamada), những
yếu tố căn bản đạo đức dựa trên nhận thức sâu sắc về những nguy hiểm trong trạng
thái bất thiện…
“Lại nữa, không sử dụng các chất say, người đệ tử của những người quý tộc
từ bỏ hành vi dùng những chất say. Khi làm như vậy, ông ta ban phát sự tự do từ
nguy hiểm, tự do từ sự thù địch, tự do khỏi sự áp bức cho vô lượng chúng sanh.
Khi ban phát tự do từ sự nguy hiểm, tự do từ tình trạng thù địch, tự do từ sự
áp bức cho vô lượng chúng sanh, ông ta đạt được một phần trong sự tự do vô hạn
từ sự nguy hiểm, tự do từ tình trạng thù
địch, và tự do từ sự đàn áp. Đây là này là món quà thứ năm…”[2]
Tuy
nhiên, trong văn hóa xã hội, kiềm chế rượu bia không phải là
một đặc tính rất ngưỡng mộ trong văn hóa tiêu dùng theo định hướng của chúng ta. Nó có thể là
một trận chiến khó khăn, nhưng những phần thưởng của sự kiềm chế là rất lớn.
kết quả có thể gây ngạc nhiên. Nếu ta quan sát thực tế với sự trung thực tỉ mỉ,
người ta nhận thấy rằng cảm xúc thèm khát chỉ đến và đi; nếu chúng ta quyết tâm kiêng cử, chúng
ta sẽ có tự do thực sự của bản thân mà không đi cùng với đám đông! Kiềm chế không phải
là đàn áp, nhưng tuyên bố độc lập từ các trạng thái bất thiện. Nó là sự lựa chọn một
cái gì đó giá trị lâu dài hơn những thú vui tạm thời và hời hợt. Những người
hạnh phúc là những người sống một cách đơn giản nhất; họ lo lắng ít hơn,
bởi vì họ không tạo ra vấn đề cho mình và người. Họ biết rằng
việc sắp xếp cuộc sống của họ xung quanh việc tiêu thụ thực
phẩm tinh tế, vui chơi giải trí, và các chất say không thể đáp ứng những gì họ cần thiết. Thực hành giữ giới, người Phật tử sống đời sống hạnh
phúc và khỏe mạnh, đồng thời mang lại những điều tốt nhất cho chính mình và
những người khác. Người tuân thủ giới này sẽ có được cảm giác an
toàn, bình tĩnh và tự tin, giúp họ theo đuổi con
đường tốt nhất có thể.
“Những
chất say men, rượu…
Ai
từ bỏ chúng rồi
Khỏi
đào gốc chính mình
Ngay
nơi thế gian này.”
(Suramerayapanaj
ca yo
Naro
anuyubjati
Idhevameso
lokasmij
Mulaj
khanati attano.)[3]
Tuân
thủ tích cực đối với sự hướng dẫn này - 'smriti' (Pali - sati)/sự chú ý hoặc nhận
thức là một tiêu chí hiệu quả. Nếu bạn có thể uống rượu mà không bị mất sự tập
trung (điều này có thể) thì cứ uống. Nhưng nếu bạn không thể thực hiện, thì hãy
kiềm chế. Tuy nhiên, bạn cần phải rất trung thực với chính mình và đừng giả vờ
rằng bạn đang cẩn thận và tỉnh táo vào thời điểm đó, khi bạn chỉ là đang say rượu.
Như vậy, trong khi sự hướng dẫn giới thứ năm được hiểu như là một sự chừng mực,
nhưng trên cơ sở tuân thủ tích cực của nó, trong hầu hết các trường hợp yêu cầu
là hoàn toàn không được uống.
Với năm giới chính mà Đức Phật đã dạy, theo ý
kiến tôi, những giới này có thể không có bất kỳ câu hỏi nào về những gì mà năm
giới này có thể giúp cho nhân loại ngày nay. Chỉ cần hình dung một cách nhanh chóng
nhân loại có thể phát triển như thế nào khi không ứng dụng đúng tinh thần năm
giới? Ngoài việc sử dụng các phương pháp như trên, không phải vì người ta bị
pháp luật cấm, nhưng vì động thái nhân văn của riêng cá nhân người đó. Tuy
nhiên, chúng ta không nên quên rằng việc chấp nhận về khái niệm nhất định nào đó,
như thể nó là ngoài mong ước, chúng ta chẳng cần làm nổi bật nó, vì mỗi một giới
trong đó vốn rất quan trọng và việc đạt được tụ do hay Niết bàn có thể chỉ cho
những người đang theo con đường cho đến cuối cùng. Đồng thời, nếu sẽ có một cái
nhìn thực tế hơn về thế giới hiện đại ngày nay; chúng ta có thể dễ dàng hiểu rằng
xã hội vẫn còn rất xa từ việc áp dụng chung đối với những lời dạy của Đức Phật.
Dường như nó sẽ có lợi cho tất cả mọi người sống trên hành tinh này, tuy nhiên
chúng ta không nên mong đợi việc thông qua những giới điều như vậy ở mức độ lập
pháp, vì những người trong tay có quyền lực sẽ cố gắng ngăn chặn điều này, bởi vì
những ham muốn ích kỷ và sợ hãi của họ. Vì vậy, cách duy nhất cho loài người hướng
tới gần Phật giáo hơn là cố gắng làm theo năm giới với những nỗ lực có thể,
luôn luôn bắt đầu với chính mình.
Như
chúng tôi đã đề cập trước, bên cạnh 'năm giới' cũng có thêm 'tám giới' và 'mười
giới’. Sự khác biệt giữa năm giới và tám giới đã chỉ ra rằng tám giới là giới
được nâng thêm cho năm giới; chúng không có nghĩa chỉ là hướng dẫn cho hành vi
luân lý, nhưng hướng dẫn đối với việc hướng đến cuộc sống có thêm sự tu tập bằng
việc thực hành những kỹ thuật theo cách của Đức Phật nghiêm ngặt hơn. Tám giới
(hay còn gọi Bát quan trai giới bao gồm):
1.
'từ bỏ sát sanh – giữ giới không sát sanh’
2.
'từ bỏ lấy những gì không được người khác cho - giữ giới không trộm cắp’
3.
'từ bỏ tình dục - giữ giới sống một cuộc sống độc thân, yên tĩnh, tránh xa các
hành vi tình dục, đó là cách ẩn cư’.
4.
'từ bỏ lời nói dối - giữ giới không nói dối'
5.
'từ bỏ rượu và các chất say gây ra sự mất chú ý - giữ giới không uống rượu và các
chất say gây ra sự mất chú ý’
6.
'ăn ngày một bữa, không ăn ban đêm, giữ giới không ăn phi thời của ngày đó’ (có
nghĩa là không ăn quá giờ ngọ)
7.
'từ bỏ việc múa, hát, âm nhạc, xem chương trình, đeo những vòng hoa, làm đẹp thân
thể với nước hoa & các mỹ phẩm'
8. ' từ bỏ việc ngồi, nằm giường cao, rộng đẹp
- giữ giới không nằm ngồi giường cao, rộng đẹp’
Như vậy chúng ta thấy rằng 'tám giới' là những
quy tắc tu tập cho những người đã chọn phương hướng khó khăn hơn nhưng ngắn
hơn, những người có thể đủ khả năng dành nhiều thời gian của họ theo phương pháp
của Đức Phật. Những người mới bắt đầu thực hiện quy ước này trong thời gian tu
tập nghiêm ngặt và, tất nhiên, trong những ngày 'uposatha' (trai giới), đó là
ngày chấp hành đối với mỗi Phật tử, như Đức Phật đã bảo, ngày 'làm sạch tâm ô
nhiễm thông qua các kỹ thuật tu tập’. Theo Đức Phật, ‘tám giới' là một trong những
kỹ thuật đặc thù, đúng hơn, tám giới thì khó hoàn thành hơn và đòi hỏi nhiều nỗ
lực để thành tựu hơn so với năm giới.[4]
Ngoài ‘tám giới’ dành cho hàng cư sĩ tu tập thì
'mười giới' đã được chế ra cho những người mới xuất gia, chúng thường được viết
hoặc đọc như những lời phát nguyện, cũng bao gồm như sau:
1.
‘Tôi nguyện giữ giới không giết hại chúng sanh.’
2.
‘Tôi nguyện giữ giới không trộm cắp.’
3.
‘Tôi nguyện giữ giới không dâm dục.’
4.
‘Tôi nguyện giữ giới không nói dối.’
5.
‘Tôi nguyện giữ giới không uống rượu và các chất say sưa.’
6.
‘Tôi nguyện giữ giới không ăn phi thời (sau buổi trưa…).’
7.
‘Tôi nguyện giữ giới không nhảy múa, ca hát, và đi xem nghe các chương trình giải
trí.’
8.
‘Tôi nguyện giữ giới không đeo những vòng hoa, sử dụng nước hoa, và làm đẹp cơ
thể với các mỹ phẩm.’
9.
‘Tôi nguyện giữ giới không nằm hay ngủ trên giường cao hoặc sang trọng.’
10.
Tôi nguyện giữ giới không nhận và giữ tiền, vàng bạc.’
Như
đã thấy ở trên, mười giới gần như tương tự với tám giới, ngoại trừ hai giới khác
biệt: giới thứ bảy được chia thành hai để tránh sự diễn dịch sai, và ngoài ra, có
thêm một giới cuối cùng về việc nghiêm cấm việc xử dụng tiền, là được thêm vào.
Chúng ta có thể thấy rằng mười nguyên tắc đạo đức này có thể được chia thành ba
loại. Loại đầu tiên (sát, đạo và dâm) - thuộc ba hành vi của thân; loại tiếp theo là loại hành vi của
khẩu (lời nói) mà chúng ta không chỉ
kiềm chế lời nói không đúng sự thật, nhưng còn kiềm chế lời vu khống, lời nói hung
dữ và lời nói hai lưỡi, thêu dệt. Tất cả giới này giúp chúng ta giữ gìn thận trọng
đối với lời phát biểu của chúng ta. Và cuối cùng, giới thuôc về tâm, là hành vi
của ý: kiềm chế sự tham lam, thất vọng
và từ những niềm tin sai lầm. Và làm thanh tịnh thân, khẩu, ý qua việc tuân thủ những giới điều này, được Đức Phật
tán thán như sau:
“Tinh
tấn và chánh niệm
Thanh
tịnh nghiệp, tinh cần
Giữ
giới, sống tỉnh thức
Tiếng
lành càng tăng trưởng.”
(Uṭṭhānavato satīmato
Sucikammassa
nisammakārino
Saññatassa
dhammajīvino
Appamattassa
yasobhivaḍḍhati.)[5]
“Tinh
cần và chú tâm
Thuần
hóa, tự điều phục
Người
trí xây hải đảo
Nước
lũ khó ngập tràn.”
(Uṭṭhānen'
appamādena
Saṃyamena
damena ca
Dīpaṃ
kayirātha medhāvī
Yaṃ
ogho n'ābhikīrati.)[6]
No comments:
Post a Comment