
Như thế chúng ta đã tóm tắt phân tích của chúng ta về
Tứ Diệu Đế của Phật giáo, và tiếp tục với một học thuyết Phật giáo quan trọng của
Phật giáo như học thuyết Phi thực tại của một đơn thể cá nhân và cái ‘tôi’ tồn
tại, hoặc linh hồn bất diệt (Atman) mà trong tiếng Phạn thường được gọi là
anatmavada (vô ngã). Học thuyết Phật giáo chia cách Phật giáo với phần lớn các
tôn giáo phi-Ấn Độ cũng như các tôn giáo khác của Ấn Độ (Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo)
vốn chấp nhận luận thuyết về "ngã"
(Atman) và linh hồn (jiva).[1]
Đoạn kinh
văn sau đây cho chúng ta nhận thức rõ hơn về việc phủ định bản ngã và linh hồn
trong phật giáo, chúng chỉ là khái niệm, là tưởng tri (smjna):
“Các Tỳ
kheo, không nên như thế mà tưởng tri (samjna) đối với vô thường, khổ
và vô ngã, tưởng tri về bất tịnh và v.v…, tưởng rằng
chúng có ý nghĩa thực sự (của Pháp), như những
người (ngu ngốc tìm kiếm một
viên ngọc rực rỡ dưới hồ nước nhưng chỉ nhặt được những viên sỏi vô
dụng, nhầm lẫn với châu báu vô giá) đã làm, suy nghĩ những
mẩu gạch, đá, sỏi và cỏ kia là những viên ngọc quý. Các ông nên huấn luyện
mình trong phương tiện hữu hiệu hơn. trong mọi tình huống, thiền định không ngừng [bhavana] đối với các tưởng
tri [samjna] về Ngã, tưởng tri về sự bất diệt, chân phúc, và thanh tịnh... những ai mong muốn đạt
được thực thể [tattva], tu tập thiển định trên những tưởng tri này, cụ thể là,
những tưởng tri về tiểu ngã [atman], bất diệt, chân phúc và thanh tịnh sẽ đưa đến những viên
ngọc quý tinh xảo, chỉ những người trí tuệ mới
như thế (người đạt được pháp chân thật, châu báu vô giá, chứ
không phải là mảnh vụn tầm thường rồi hiều lầm [tưởng tri] chúng là sự
thật.)"[2]
"... người biết chính mình (atmanam) là bất
nhị, người ấy có trí tuệ biết cả Phật và Pháp. Tại sao? Người ấy phát triển tính
cách (atmabhava) bao gồm tất cả các pháp [hiện tượng] đối với tất cả các pháp đặc
trưng cố định trong tự ngã của họ (Atma-svabhava-niyata). Một người trí tuệ biết
pháp bất nhị, người trí tuệ cũng biết Phật Pháp (Buddhadharmas). Từ sự quán triệt
pháp bất nhị thì có sự quán triệt giáo pháp (Buddhadharmas) và từ sự quán triệt
tự ngã thì quán triệt vạn pháp của ba cõi. “quán triệt về tự ngã, đó là vượt
qua tất cả pháp…”[3]
"Đức Như Lai cũng dạy, vì lợi ích của tất
cả chúng sinh, dạy rằng, sự thật có tự ngã ở trong tất cả mọi hiện tượng."[4]
Tại sao Phật Giáo phủ nhận sự tồn tại của một tự ‘ngã’
bất diệt? Khi trả lời câu hỏi này, chúng ta lập tức đã đối mặt với sự khác biệt
giữa tư tưởng của Ấn Độ và châu Âu. Như ai cũng biết, Kant coi là sự bất tử của
linh hồn là một trong những định đề về đạo đức (Kant). Phật giáo, mặt khác, lập
luận rằng một cảm giác về tự ‘ngã” và sự chấp thủ đối với tự ‘ngã’ này là nguồn
gốc của khát ái, đam mê và bản năng, tất cả bắt nguồn từ hình thái 'clesha',
các yếu tố tình xúc mê tối dẫn dắt chúng sinh vào vũng lầy trong vòng sinh tử
luân chuyển.
Vậy chính xác tự 'ngã' nào là bị từ chối bởi các Phật tử?
Phật giáo không nói bất cứ điều gì về tiều ngã (Atman) được mô tả trong
Upanishads, đó là chủ đề tuyệt đối, bản ‘ngã’ nào đó chuyển hóa cao hơn, dường
như cho tất cả chúng sinh và đồng nhất với tuyệt đối (Brahman). Tiểu ngã (Atman)
này không được chấp nhận hay bị từ chối bởi Phật giáo. Tối thiểu trong các kinh
văn đầu tiên không nói gì về nó. Đặc biệt, nó từ chối bản ‘ngã’ cá nhân như thực
chất của cá nhân, đơn nhất và bản chất vĩnh như chính là nó. Phật giáo không
tìm thấy nó trong kinh nghiệm của chúng ta và xem nó như là một sản phẩm ảo tưởng
của kiến trúc tinh thần. Như vậy, về cơ bản, Phật Giáo phủ nhận những gì trong
truyền thống Bà la môn và Jain gọi là jiva (linh hồn) hoặc pudgala (cá thể).[5]
Nhưng nếu như một thực thể như một linh hồn không tồn
tại thì cá thể là gì? Đức Phật trả lời rằng cá thể chỉ là một tên cho các nhóm
yếu tố tâm vật lý kết hợp theo một thứ tự cụ thể. Một trong những tác phẩm triết
học Phật giáo nổi tiếng ‘Các câu hỏi của vua Milinda' (Milinda Panha), vị Tăng
nhân Na Tiên (Nagasena) giải thích về nó với vị Vua Milinda Ấn-Lạp. Nhà vua lập
luận rằng nếu Phật tử tin rằng không có linh hồn và tự ‘ngã’, ngoài những yếu tố
thuộc về cấu trúc tâm-vật lý của con người, cũng như sự phức tạp của tất cả các
yếu tố này thì không hình thành một cá thể (chúng sinh), sau đó nhà vua đặt câu
hỏi trở lại với Tỳ kheo Na Tiên: như thế là không có (con người…) gì hết phải
không? Na Tiên chỉ cho nhà vua một chiếc xe ngựa và bắt đầu đặt câu với nhà vua
rằng những gì là nó: bánh xe một chiếc xe ngựa? Hoặc vỏ xe là chiếc xe ngựa? Hoặc
một vài phụ tùng khác là một chiếc xe ngựa…? Với tất cả những câu hỏi này, nhà
vua cho rằng là không. Sau đó, Na Tiên hỏi lại vua, như thế xe ngựa không phài
là tất cả các bộ phận hợp lại với nhau. Vua Milinda đưa ra phủ quyết một lần nữa,
và lúc này Na Tiên mới nói rằng trong trường hợp này không có xe ngựa nào cả.
Sau đó, Na Tiên giải thích rõ ràng rằng xe chỉ là tên được thiết kế để biểu thị
tập hợp của tất cả các bộ phận và linh kiện. Sự giải đáp mà Na Tiên trình bày
như cách mà cá nhân hiện hữu chỉ là một danh (tên) đại diện cho một sự thống nhất
của năm uẩn của các yếu tố kinh nghiệm được hình thánh một cách đặc biệt.[6]
Trong truyền thống
Phật giáo, những nhóm yếu tố được gọi là pañcaskandhī, đó là skandha (ngũ uẩn),
có nghĩa là một tập hợp, đó là:
• tập hợp của sắc (rupa), đó là tất cả những gì
chúng ta có thể nhận biết được bằng các giác quan với hình thể vật chất;
• tâp hợp của cảm thọ (vedanā), cảm giác dễ
chịu, khó chịu hay trung tính;
• tập hợp của tưởng (saṃjñā), tròn / vuông, trắng / đen, v.v…, cũng như sự
hình thành các ý tưởng và khái niệm;
• tập hợp của hành (samskāra), tác ý và sự thúc
đẩy không ngừng, nhóm này thuộc về các yếu tố chịu trách nhiệm cho sự hình
thành của nghiệp;
• ý thức (vijñāna) là sự
phân biệt từ sắc, thọ, tưởng, và hành. (Boisvert 669)
Đức Phật trả lời rõ ràng khi
một vị Tỳ kheo hỏi về năm uẩn:
"Bất kỳ hình thể nào là quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại, trong hay ngoài, thô
hay tế, tầm
thường hay cao siêu, xa hay gần: đó gọi là sắc.
"Bất kỳ cảm giác nào
là quá khứ, tương lai, hoặc
hiện tại, trong
hay ngoài, thô hay tế, tầm thường hay cao siêu, xa hay gần: đó gọi là thọ uẩn.
"Bất kỳ tưởng tri
nào là quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại, trong hay ngoài, thô hay tế, tầm thường hay cao siêu, xa hay gần: đó gọi là
tưởng uẩn.
"Bất kỳ tâm hành nào là quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại, trong hay ngoài, thô hay tế, tầm thường hay cao siêu, xa hay gần: đó gọi là hành uẩn.
"Bất kỳ sự phân biệt nào là quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại, trong hay ngoài, thô hay tế, tầm thường hay cao siêu, xa hay gần: đó gọi là thức uẩn.
“Như thế chúng được gọi là năm uẩn
"Bất kỳ tâm hành nào là quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại, trong hay ngoài, thô hay tế, tầm thường hay cao siêu, xa hay gần: đó gọi là hành uẩn.
"Bất kỳ sự phân biệt nào là quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại, trong hay ngoài, thô hay tế, tầm thường hay cao siêu, xa hay gần: đó gọi là thức uẩn.
“Như thế chúng được gọi là năm uẩn
“Và năm thủ-uẩn là gì?
"Bất
kỳ
hình sắc nào -
quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại,
trong hay ngoài, thô hay tế,
tầm thường hoặc cao siêu, xa hay gần - được
chấp thủ, được nuôi dưỡng, và phát sinh hữu lậu: Đó gọi là
Sắc thủ uẩn.
"Bất
kỳ cảm thọ nào -
quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại,
trong hay ngoài, thô hay tế,
tầm thường hoặc cao siêu, xa hay gần - được
chấp thủ, được nuôi dưỡng, và phát sinh hữu lậu: Đó gọi là
Thọ thủ uẩn.
"Bất
kỳ tưởng tri nào - quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại,
trong hay ngoài, thô hay tế,
tầm thường hoặc cao siêu, xa
hay gần - được chấp thủ, được nuôi dưỡng, và phát sinh hữu
lậu: Đó gọi là Tưởng thủ uẩn.
"Bất
tác ý nào -
quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại,
trong hay ngoài, thô hay tế,
tầm thường hoặc cao siêu, xa hay gần - được
chấp thủ, được nuôi dưỡng, và phát sinh hữu lậu: Đó gọi là
Hành thủ uẩn
"Bất
nhận thức nào - quá khứ, tương lai, hoặc hiện tại,
trong hay ngoài, thô hay
tế, tầm thường
hoặc cao siêu, xa hay gần - được
chấp thủ, được nuôi dưỡng, và phát sinh hữu lậu: Đó gọi là
Thức thủ uẩn. Chúng
được gọi là Năm thủ uẩn."[7]
Cần nên chú ý rằng sự tuần tự của các uẩn (skandhas)
không phải là ngẫu nhiên. Nó phản ánh thứ tự của khái niệm về một đối tượng và sự
khám phá của nó bằng một ý thức. Ban đầu, chỉ có một dữ liệu giác quan, sau đó
đến một cảm giác vui hoặc không vui theo nó, rồi sự hình thành một hình ảnh nào
đó của đối tượng nhận thức và tiếp đó hình thành một tiến trình tập hợp bằng thu
hút đối với sự lĩnh hội hoặc nhận thức về nó. Tất cả các quá trình này được đi
với sự tham gia của ý thức mà tồn tại trên mỗi cấp độ.
Sắc thái quan trọng trong Phật giáo là ở trong khái niệm
về hữu tình cũng được bao gồm một lĩnh vực đối tượng được nhận thức bởi một
chúng sanh. Không có con người độc lập và đối tượng độc lập mà ta nhận thức; có
một loại lĩnh vực trải nghiệm mà con người cảm nhận một đối tượng. Ở đây các đối
tượng không còn là một đối tượng bên ngoài, ở ngoài con người, nhưng một phần của
con người bao gồm trong đối tượng xuyên qua quá trình nhận thức. Đây không phải
là một đối tượng của chính nó, nhưng sự phản chiếu đã được cảm nhận bởi con người,
và, do đó nó đã trở thành một phần của thế giới bên trong của nó, một phần của
thể tính con người.[8] Đây không phải là thế giới mà chúng ta sống; đây là
thế giới chúng ta đang sống.
Mặc dù Phật Giáo phủ nhận một linh hồn cá thể, nó vẫn thừa
nhận một số bản chất như những viên gạch được cấu thành từ một hữu tình. Những
viên gạch đó là năm uẩn. Tuy nhiên, các uẩn không phải là những thực chất, chúng
là những nhóm của các yếu tố, và sự phân bổ của chúng là có điều kiện và luật lệ.
Vậy sự thực là gì? đó là các yếu tố của các uẩn, chúng được gọi là pháp
(Dharma). Việc giảng dạy về pháp (Abhidharma) chính là một trong những điều phức
tạp nhất và cũng là chủ đề cốt lõi của triết học Phật giáo.
Pháp là một yếu tố không thể tách rời của trải nghiệm
tâm vật lý của chúng ta, hoặc nó là một điều kiện tâm vật lý cơ bản. Có thể xem
Pháp một thực thể? Không thể, vì hai lý do. Thứ nhất, theo sự hiểu biết của người
Ấn Độ đối với thực thể và thực chất, chẳng hạn như học phái Nyaya của Bà la môn,
một trong những đối thủ tư tưởng chính của Phật giáo, với lập trường rằng thực
thể thì luôn luôn hàm chứa đa phần các tính chất có liên quan với nó trong những
những kết nối khác nhau; đối với Phật giáo mỗi pháp chỉ mang một tính chất
riêng của chính nó. Thứ hai, những nhà thực thể học Ấn Độ khẳng định các nguyên
tắc của sự khác biệt giữa chất và các thực thể (ngẫu nhiên, phẩm lượng) được thể
hiện trong công thức 'Dharma - dharmin bheda' (tiền trần và hậu trần) mà Dharma
là một chất lượng được bao hàm, và dharmin là yếu tố thực thế. Phật giáo tuyên
bố rằng Dharma và dharmin là tương ưng, bởi yếu tố và sự dung khởi bởi chúng đều
có cùng phẩm lượng. Ngoài ra còn có một sự khác biệt cơ bản thứ ba: thực chất đối
với niềm tin của Bà-la-môn giáo như một quy luật, là vĩnh cửu, trong khi đối với
Phật giáo, Dharma là tức thời.
Điều quan trọng khác về các pháp đó là phần lớn trong
các tông phái Phật giáo thì pháp được cân nhắc cẩn thận, mặt khác, pháp là
dravya (bản thể), có nghĩa là các yếu tố bao hàm tình trạng bản thể - những yếu
tố thực, mặt khác, pháp là prajnapti (giả định), đó là, chỉ có thể nhận thức,
hoặc qui ước, hoặc những đơn vị của ngôn ngữ mô tả các kinh nghiệm. Nó có nghĩa
là những trải nghiệm của chúng ta được thành lập bởi các pháp, nhưng chính bản
thân pháp cũng được diễn tả trong thuật ngữ về pháp. Ở đây nó có thể có một chút
thô thiển tương ưng: bài phát biểu của chúng ta bao gồm các từ ngữ, nhưng những
từ ngữ chúng ta diễn tả cũng bằng lời.
Đặc trưng sự hiểu biết các pháp của Phật tử đã giúp họ
gần với độ phân giải của cái gọi là nghịch lý của các tiến trình tâm thần mà ngành
tâm lý học châu Âu đã bắt đầu nhận thức được chỉ trong thế kỷ XX: chúng ta luôn
luôn mô tả ý thức không ở trong điều kiện nội tại (terms, các thuật ngữ phản
ánh đặc tính vốn có của riêng chúng) nhưng trong những điều khoản của thế giới
bên ngoài hay ý thức khác. Bằng việc giới thiệu các khái niệm về pháp (dharma) như
hai yếu tố quan hệ bản thể học của ý thức và kinh nghiệm nói chung và là một yếu
tố ngôn ngữ đối với sự mô tả của ý thức (và kinh nghiệm); trong bản chất, các
Phật tử đã tìm thấy một biến thể của ngôn ngữ thuộc về sự diễn đạt ý thức, đó
là nội tại với ý thức. Đây là đóng góp không thể phủ nhận của Phật giáo với triết
học thế giới.
Như vậy, Phật giáo nhìn con người chỉ như một cái tên được
thành lập để xác định một cấu trúc kết hợp được sắp đặt của năm nhóm yếu tố không
thực và vô thường của trạng thái tâm vật lý và các pháp. Đây là một công thức
khá nghiêm ngặt của nguyên lý anatmavada ('vô ngã', 'không có linh hồn’), hay
chính xác hơn, một trong hai khía cạnh của nó - nhân vô ngã tánh (pudgala
nairatmya).
Trong luận triết Phật giáo (Abhidharma), có nhiều danh
mục và phân loại khác nhau của Pháp. Ví dụ, trường phái Nhất-thiết-hữu-bộ
(Sarvastivadins/Vaibhashika) đã đưa ra bảy mươi lăm pháp, và danh mục của Duy
thức tông (yogakarins /Vijnanavadins) bao gồm một trăm pháp. Nếu chúng ta nói về
việc phân loại các pháp, trước hết, chúng có thể được phân loại trong một mối
quan hệ với tập hợp các uẩn (pháp liên quan đến sắc uẩn và thọ uẩn). Năm phần liệt
kê này có thể giảm thành nhị phân: Pháp Sắc uẩn và pháp của tất cả các uẩn khác
(theo sự phân chia đối về việc hình thành cá nhân với danh và sắc pháp (nāma rūpa)
- tinh thần và thể chất). Trong trường hợp này, nhóm thứ hai của pháp được đặt
tên dharma dhātu (yếu tố pháp) vì các pháp là thành viên của 'dharm dhātu', là
đối tượng của tâm (manas) như chúng ta biết từ việc phân tích chuỗi nhân quả
duyên khởi vốn liên quan đến trí tuệ nhận thức của Phật tử. Các pháp liên quan
đến saṃskāraskandha (hành uẩn) cũng được chia 2 loại: tâm tương ưng hành pháp
(citta- samprayukta) và tâm bất tương ưng hành pháp (citta - viprayukta).[9]
Thứ hai, các pháp được chia thành sanskrita dharma (hữu
vi pháp - bao gồm các yếu tố nhân duyên) và asanskrita dharma (vô vi pháp - không
bao gồm các yếu tố nhân duyên). Loại đầu tiên cũng được gọi là pháp thực nghiệm,
đó là những yếu tố cấu thành kinh nghiệm luân chuyển của chúng ta-các pháp thuộc
về năm ấm của chúng sinh. Loại thứ hai là phi thực nghiệm pháp, các pháp không
liên quan đến kinh nghiệm hàng ngày. Đó là một không gian tuyệt đối hay một không
phát triển khai kinh nghiệm tâm linh (căn nguyên-Akasha) và hai loại đoạn diệt
(nirodha: một trạng thái ngừng hoạt động của các dòng tư tưởng thực nghiệm, Niết
bàn): sự đoạn diệt với sự phân biệt (thức diệt - pratisamkhya nirodha) và sự đoạn
diệt với bất phân biệt (vô thức diệt - apratsamkhya nirodha). Hơn nữa, các pháp
được chia thành pháp hữu lậu (sasrava) và pháp vô lậu (anasrava). Pháp hữu lậu
là các pháp tham gia vào chu kỳ luân hồi; trong quá trình tu tập mà hành giả có
khuynh hướng loại bỏ dần dần. Cũng một pháp về 'sự thật về con đường’ (marga
satya) không phụ thuộc: mặc dù con đường dẫn đến Niết bàn, cũng như tự thân Niết
Bàn, có thể là đối tượng của chấp trước, nhưng sự chấp trước nào đó ở đây không
tác động đối với pháp này, bởi vì chúng không tìm thấy một sự hỗ tương trong
đó. Nhưng nói chung, loại pháp cần được cân nhắc là bất thiện nghiệp (akushala).
Loại thứ hai của pháp, trái lại, góp phần vào việc xúc tác thiện nghiệp
(kushala) và thúc đẩy con đường đến Niết bàn. Pháp tương tự đi đến Niết bàn cũng
là pháp không có bao gồm trong các yếu tố hữu vi.[10]
Pháp liên tục sinh và diệt, luôn thay đổi bởi đuợc phát
sinh từ định luật nhân duyên. Các pháp phi thực cứ sinh rồi hoại trong hợp thể
của chúng tạo thành một một dòng liên tục (santana) mà kinh nghiệm được thấy
như là một chúng sanh. Vì vậy, bất cứ sinh vật nào, bao gồm đối với những người
không hiểu Phật giáo bằng bản chất bất biến (linh hồn, atman), nhưng như là một
dòng liên tục thay đổi trạng thái tâm vật lý cơ bản. Bản thể học của Phật giáo
là bản thể học của tiến trình phi thực, duyên khởi.
Một tính năng khác quan trọng của vũ trụ Phật giáo là
liên quan chặt chẽ với các lý thuyết về vạn pháp. Đó là giáo lý vô thường
(kshanikavada). Phật giáo cho rằng sự tồn tại luân hồi có bản chất bởi các tính
năng sau:
§
Tất cả các pháp
là tạm thời (anitya)
§
Tất cả các pháp là
đau khổ (duhkha)
§
Tất cả các pháp là
vô ngã (anatma)
§
Tất cả các pháp
là bất tịnh (ashubha) - (Coseru)
Học thuyết
tạm thời y cứ trực tiếp từ pháp ấn đầu tiên
về vạn vật vô thường. Nó lập
luận rằng mỗi pháp (và tương ứng, toàn thể
sự phức hệ của các pháp) tồn
tại chỉ trong một khoảnh khắc không thể
tính, trong khoảnh khắc tiếp theo được
thay thế bởi một pháp mới, và được tạo
nên bởi cái trước đó. Bằng
cách này, chúng ta không thể bước hai lần
vào một dòng sông, nhưng thực sự là không ai có thể làm điều gì đó với lần
thứ hai. Về bản chất, từng giây phút mới có một cái mới - tác nhân liên đới với cái trước đó và có
duyên hệ với nó (Coseru).
Trong Kinh Pháp Cú, chúng ta thấy những lời của Đức Phật
về sự vô thường đối với vạn hữu: Đức Thế Tôn bảo, “… Ở đây, Tỳ kheo, người nào có
quan điểm: ‘Đây là tự ngã tôi, thế giới này, sau khi chết tôi sẽ thường trụ,
trường tồn, vĩnh cửu, không có gì thay đổi; tôi sẽ chịu đựng miễn là bất tử.’
Người ấy nghe Như Lai hay một đệ tử của Như Lai giảng dạy giáo pháp nhằm loại bỏ
tất cả các quan điểm, định kiến, nỗi ám ảnh, đắm trước, và những khuynh hướng tiềm
tàng, vì các tỉnh lặng của tất cả tạo tác, vì sự chấm dứt tất cả tham trước, vì
sự hủy diệt đối với ái dục, vì sự định tĩnh, vì sự tịch diệt, vì đạt đến Niết
Bàn. Người ấy nghĩ như thế này: ‘ Như thế tôi sẽ bị tiêu diệt! Rồi tôi sẽ chết!
Rồi tôi sẽ không còn nữa!’ Thế rối ông ta buồn rầu, đau khổ và xót xa, ông ta đánh
vào ngực mình khóc lóc và trở nên quẫn trí. Đó là có sự quá kích động về những
gì không tồn tại ở bên trong.” [11]
Như
vậy, theo học thuyết vô thường, một nguồn pháp hình thành một chúng sanh không
chỉ là một sự liên tục, nhưng là rời rạc cùng một lúc. Nếu sử dụng một phép ẩn
dụ hiện đại, nó là cách tốt nhất để so sánh nó với một cuốn phim: nó bao gồm
các mô hình riêng biệt, tuy nhiên, chúng ta không thấy khi chúng ta xem một bộ
phim và cảm nhận nó như một sự liên tục thuần chất. Trong trường hợp này, sự
khác biệt giữa hai khung kế nhau là hoàn toàn không thể nhận ra, và chúng xuất
hiện với con mắt thường là gần như giống nhau mặc dù sự khác biệt đang tăng trưởng
và xảy ra dần dần. Trong ví dụ này, mỗi cuộc sống mới là một tập mới của một chuỗi
không có khởi đầu, và Niết bàn là tập cuối của bộ phim.
Tuy nhiên, ở đây một câu hỏi khác có thể phát sinh: nếu
không có linh hồn thì cái gì được tái sinh và tiếp diễn từ đời này sang đời khác?
Câu trả lời là khá nghịch lý: không có gì là tái sinh và không có gì tiếp diễn.
Trái ngược với niềm tin thông thường, Phật giáo không có giáo lý về sự luân
chuyển tái sinh từ một linh hồn bất biến. Trong Phật giáo, con người không phải
là một linh hồn đầu thai như trong Ấn Độ giáo. Ông ta là một dòng chảy liên tục
của các trạng thái – các pháp là một chuỗi của các ảnh hiện, đó là khoảnh khắc.
[1] Ibid…
[2] The Buddha, Chapter Three, "Grief", the Mahayana Mahaparinirvana Sutra.
[3] The
Buddha in the "perfect insight" scripture, The Questions of
Suvikrantavikramin, from Perfect Wisdom: The Short Prajnaparamita Texts, tr. by
Edward Conze, BPG, England, 2002.
[4] The
Mahaparinirvana Sutra, Chapter Three, translated
into English by Kosho Yamamoto, 1973.
[5] Arshdeep
Sarao, The Story of Buddha Sakyamuni
[6] The Questions of
King Milinda, translated by T. W. Rhys Davids
[7] Khandha Sutta: Aggregates translated from the Pali by Thanissaro
Bhikkhu
[9] Willemen, Entrance into the
Supreme Doctrine p.219-224
[10] Ibid…
[11] Bhikkhu Nanamoli, and Bhikkhu Bodhi, The
Middle Length Discourses of the Buddha p.230
No comments:
Post a Comment