
Chánh niệm bao gồm Tứ niệm trụ hay còn gọi là Tứ Niệm xứ(Pali:satipaṭṭhāna, Sanskrit:smṛtyupasthāna), nghĩa là tùy niệm
quán chiếu ở nơi thân, thọ, tâm và pháp; tức là bốn loại sở duyên tu tập nhằm
đoạn trừ vọng tưởng, phân biệt (Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm
vô thường, và quán pháp vô ngã). Trên căn bản Chánh kiến, và tùy theo giai trình
tu tập Chánh niệm về Tứ niệm xứ mà chúng ta đạt được trí tuệ khác nhau. Đức Phật
dạy rằng:”Này các Tỳ Kheo, ở đây có một pháp tu tập, có thể khiến chúng sanh
thanh tịnh, vượt thoát sầu, bi; diệt trừ khổ ưu, đạt đến như lý, hiện chứng Niết
bàn, đó là Tứ niệm xứ.”[1]
Là phần trước của giai đoạn cuối cùng, 'chánh
niệm' (samyak-smrti / Samma-sati) cũng được gọi là 'tỉnh thức hoàn hảo’, áp dụng
đối với lĩnh vực thiền (Sanskrit và Pāli: samādhi)-sự có mặt của tỉnh thức
trong mọi tình huống. Trong trường hợp này, nó được xem là mức độ cao của việc
tự-kiểm đối với thân và ý.
Khác
với tư duy thông thường, người ta hay nghĩ rằng mình hiểu mình và hành động của
mình là mức đánh giá trọn vẹn nhất; tuy nhiên, điều này thường không phải là
trường hợp. Ví dụ, Sigmund Freud, cha đẻ của phân tâm học, trong tác phẩm của mình
“Introduction to Psychoanalysis”, ông ta đặc biệt chú ý đến những sai lầm nhỏ
đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, do sai sót nhỏ khác nhau xảy
ra với chúng ta mỗi ngày. Chính xác hơn, ông ta đang tìm kiếm những nguyên nhân
gây ra những lỗi lầm mà chúng ta thường tạo ra mỗi ngày: ví dụ, trong lời của
chúng ta, nói bằng miệng hay viết tay, hoặc đôi khi chúng ta mắc sai lầm khi
chúng ta không thể phát ra những lời không rõ ràng về ai đó, hoặc đọc chữ viết không
đúng và cảm nhận thông tin sai, hoặc thậm chí đôi khi vô tình thay đổi một vài
từ bằng những từ khác, trong trường hợp tạm thời quên những tên hoặc khái niệm,
tạm thời mất đề mục nào đó, và v.v...
Theo Freud, tất cả những vấn đề đang xảy ra
không phải do cơ hội; nhưng chúng thực sự là một hệ quả của các hành động thuộc
tiềm thức của chúng ta vốn dựa trên cái tôi của chúng ta, chính là sự nuôi dưỡng
trên nỗi sợ hãi và niềm đam mê của chúng ta. Tiềm thức có thể thuyên chuyển bất
kỳ thông tin một cách kỷ luỡng từ tâm trí của chúng ta hoặc bóp méo nó theo sở
thích ‘riêng’ của nó. Do đó, thông thường, những tham muốn của chúng ta hướng dẫn
cách chúng ta nghĩ và cảm xúc, chứ không phải như được hiểu theo lệ thường. Chánh
niệm dạy chúng ta làm thế nào để thanh lọc tâm trí của chúng ta từ những thinh
sắc không cần thiết, giúp chúng ta xác định các ý tưởng đến từ các động cơ nào đó
và thoát khỏi những điều không cần thiết.
Khi 'chánh niệm' là nấc thang của trình độ thứ
bảy, nó có thể thực sự chỉ đạt được với tiến trình tuần tự của tất cả các giai
đoạn trước đó, và nó đã là một sự thách thức không nhỏ; chính xác hơn, là nó có
sự chuẩn bị trước; ở phần này, trong ý nghĩa khác, nó là một kết quả của việc
thực hành những phần trước đó.
Theo
lời dạy của Đức Phật, 'chánh niệm' là:
"Có
trường hợp một vị Tỳ kheo tu tập quán sát thân trong thân - nhiệt tâm, tỉnh
giác và chánh niệm – buông bỏ tham lam và phiền não với sự dính mắc thế gian. Vị
ấy tiếp tục quán cảm thọ trong cảm thọ… quán tâm trong tâm ... quán pháp trong
pháp - nhiệt tâm, tỉnh giác, và chánh niệm – buông bỏ tham lam và phiền não với
sự dính mắc thế gian. Điều này được gọi là Chánh niệm ...”[2]
Như thế, chúng ta thấy rằng để đạt được trạng
thái này cần phải đạt được thành công lớn trong việc thực hiện của các giai đoạn
trước đó. Vấn đề là không phải là trên thực tế những gì vị ấy đã từ bỏ, hoặc bao
nhiêu thành kiến tiêu cực mà vị ấy đã gạn sạch, giống như nó chấp nhận ví dụ trong
Kitô giáo, nhưng những gì mà người ta đã đạt được xuyên qua điều này, một lần nữa
nhắc nhở chúng ta rằng Đức Phật chỉ trình bày cho chúng ta phương hướng để chúng
ta làm theo; vì vậy, tất cả mọi người cần phải thực hành con đường này bằng chính
mình. Và Chánh niệm bao gồm nhiều phạm vi của cuộc sống, có thể được chia thành
nhiều phần, tuỳ thuộc vào phạm vi cụ thể mà nó ảnh hưởng, và ngược lại.
Ví dụ trong trường hợp này, Sangharakshita xác
định bốn trình độ sau đây về sự tỉnh thức, sử dụng nguyên tắc phân biệt, dựa trên
đối tượng của sự chú ý để sự hiểu biết của chúng ta tốt hơn với khái niệm toàn
thể: 'sự tỉnh thức đối với các sự cố’, 'sự tỉnh thức đối với chính mình’, ‘sự tỉnh
thức đối với người khác’ và ‘sự tỉnh thức đối với thực tại’.[3]
‘tỉnh thức
đối với các sự cố’
Trong
thế giới ngày nay, chúng ta đã quên chú ý của mình đối nhiều điều tuyệt vời như
thế nào, sự chú tâm đến chúng chắc chắn không đủ, hiểu sai về chúng, và thường
quên đi bản chất của chúng. Trong thế giới hiện đại, sự thất niệm luôn luôn xảy
ra, mọi người không có thời gian và không muốn tập trung vào chúng.
Hầu như trong mọi tình huống, chúng ta thường không
cảm nhận nó ở trong thể thanh tịnh như được đề cập trong giáo huấn của Đức Phật.
Ngày nay, sự tỉnh thức trở nên đáng chú ý đặc biệt đối với sự công nghiệp hóa
toàn diện với nhịp điệu điên rồ của cuộc sống mà chúng ta rất khó thoát khỏi. Sống
trong một nhịp điệu như thế, người ta thường nghĩ rằng Chánh niệm dường như khó
có thể và hoàn toàn 'phi lý' để lãng phí thời gian đối với nó. Triết lý của thế
giới hiện đại khuyến khích chúng ta tiêu thụ hàng hoá (nhiều chừng nào tốt chừng
đó) mà không cần suy nghĩ về bản chất của chúng, bỏ hết thời gian vì nó, áp đặt
sự tham muốn hời hợt trên chúng, và che giấu sự thật.
Ví dụ, đa số các chủ sở hữu xe trên thế giới
không biết cách lái chiếc xe của họ đúng hoàn toàn. Chỉ có một sự sai lầm nghiêm
trọng có thể khiến họ tìm ra nó. Hầu hết các trang web trực tuyến hoặc những
người sử dụng phần mềm máy tính từ xa mong muốn phân tích điều gì đó, bởi vì
ngay cả trong trường hợp thất bại nghiêm trọng mà giải pháp của các vấn đề này
không đòi hỏi sự tham gia trực tiếp. Điều đáng ghi nhớ rằng những điều nói trên
được tạo ra bởi con người và đòi hỏi phải có sự giải thích hợp lý hơn với 'sự hiểu
biết' theo nghĩa Phật giáo, sự thành công đối với điều này phức tạp và khó khăn
hơn nhiều, nhưng như người ta nói 'con đường vòng dài nhất là con đường ngắn nhất
để về nhà’.[4]
Tỉnh thức đối với các sự cố bắt nguồn từ cái
nhìn bên trong: khi chúng ta nhìn sự vận hành của mọi sự vật, mọi tình huống với
sự có mặt của Chánh niệm, chúng ta có cái nhìn đúng và sâu sắc hơn đối với các
pháp, không bị chúng lôi cuốn theo vòng xoáy của chúng. Sự hiện diện của Chánh
niệm là ‘thấy các pháp như là chúng’, chúng ta có thể tháo gỡ sự vướng mắc của
mình vào chúng, như thế tâm chúng ta có được tự do từ các hiện tượng không ngừng
thay đổi.
‘tỉnh thức
đối với chính mình’- nhận thức về thân và những thay đổi của nó
Cũng thế, Đức Phật thường nhắc nhở chúng ta
quan tâm đến việc ý thức về thân thể, sự chuyển động của nó và tiến tình diễn
ra trong nó. Nhiều quá trình trong thân của chúng ta đang phát sinh mà không có
sự chú ý và nhận thức của chúng ta: ví dụ, nhiều người có thói quen cắn móng
tay khi lo ngại, hoặc bẻ khớp các ngón, hoặc xoáy các lọn tóc trên đầu ngón tay
mỗi lần như vậy; điều này được coi là một vài lọai biểu lộ của mức độ căng thẳng.
Chúng thường liên quan đến sự rối loạn thần kinh, thường xuất hiện bởi sự căng
thẳng. Và như được biết, bước đầu tiên để điều trị chứng bệnh như vậy là chẩn
đoán chúng.
Tuy nhiên, điều này chỉ trôi nổi trên bề mặt; nếu
chúng ta nhìn sâu hơn một chút, chúng ta chắc chắn sẽ nhận ra rằng có một số lượng
lớn của các hành động và tiến trình trong cơ thể chúng ta đang lẩn tránh sự chú
ý của chúng ta: chúng ta luôn luôn ở trong trạng thái ngủ và thức, chúng ta ăn và
uống, chúng ta nhấp nháy với đôi mắt của mình, chúng ta thở, cơ quan nội tạng của
chúng tai đang làm việc không ngừng. Trong trường hợp như vậy, chúng ta phải
rèn luyện tâm của chúng ta trong việc nhận thức cả thế giới bên trong và bên
ngoài.[5]
Cách tốt nhất để nhận biết về thân của mình là
thực tập thiền, bởi sự thực tập này thì dễ dàng được thực hiện hơn khi thân và tâm
hoàn toàn được thư giãn. Tuy nhiên, điều này không nên giới hạn chỉ với việc tu
thiền, nó là cần thiết để tự mình tu tập trong sự tỉnh thức thể hiện ở mỗi hành
động của cơ thể chúng ta, sự tập trung vào từng trường hợp cụ thể đều có thể. Đức
Phật nói: 'hành giả cần chú ý bên trong-quán thân trong thân, hoặc chú ý bên
ngoài-quán thân trong thân, hoặc cả hai bên trong và bên ngoài-quán thân trong
thân. Hoặc hành giả cần chú ý vào hiện tượng phát sinh liên hệ với thân, hiện
tượng hoại diệt đối với thân, hoặc hiện tượng sinh & diệt đối với thân. Hoặc
với chánh niệm rằng: Có một cơ thể được duy trì trong phạm vi nhận biết và hồi
tưởng. Và hành giả duy trì sự độc lập, không lệ thuộc (không bám vào) bất cứ điều
gì trong thế gian. Đây là cách một nhà sư nên tập trung sự tu tập quán thân
trong thân’[6], và tiếp đó ngài cũng đưa ra những hướng dẫn cụ thể
hơn; ngài gợi ý rằng mỗi người cần phải nhận thức đối với vị trí thân thể của mình,
ví dụ, như khi ngồi hoặc nằm…điều này cần thiết để tu tập đối với sự nhận thức
của mỗi tiến trình trong cơ thể chúng ta; như khi chúng ta ăn, hoặc khi nhai, lúc
chúng ta nhìn lại trên con đường…Đơn giản hơn, sự chuyển động của mỗi cơ bắp, tế
bào trong cơ thể cần nên chú ý.
Tuy thế, đây chỉ là những sự việc rõ ràng nhất.
Điều này dường như không thể hiểu được tất cả các quá trình bên trong của chúng
ta ngoài việc nhận ra những gì là nguyên nhân của chúng. Vì vậy, để biết rõ cơ
thể của mình, tối thiểu, chúng ta phải biết về những phần đã hợp thành nó. Như
sự hiểu biết và mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan riêng của chúng ta giúp chúng
ta hiểu được con người và thiên nhiên xung quanh chúng ta ở một mức độ phẩm chất
cao hơn, rồi bất ngờ khiến chúng ta tương tác hiệu quả hơn với toàn bộ thế giới.
Điều này cũng được áp dụng theo thứ tự ngược lại – nhìn người khác, chúng ta có
thể hiểu rõ hơn về bản thân mình, vì nhiều sự việc có thể nhìn thấy chỉ bằng
cách này.
‘tỉnh thức đối với những cảm thọ’
Sự
tỉnh thức về những cảm giác không kém phần quan trọng, bởi vì ý thức đối với những
phản ứng cảm thọ của cơ thể giúp chúng ta đạt được trạng thái cảm tính tinh xảo
hơn. Đức Phật rất đơn giản hoá việc nhận
định về các giác quan, nêu bật những tiêu chí quan trọng nhất: ‘khổ thọ’, ‘lạc
thọ’ và ‘vô ký thọ (cảm giác trung tính)’, sự biểu hiện của mỗi cảm thọ có nhiều
đặc điểm quan trọng: 'thuộc về nhục dục’ và cũng như 'không thuộc về nhục dục’.
Có những khổ thọ và lạc thọ tiêu cực, thuộc về
nhục dục: Ví dụ, cảm thấy sung sướng khi nằm trên một chiếc giường nệm mới mua,
cảm giác buồn khi cái giường không còn đẹp và êm nữa; hoặc cảm giác lâng lâng
khi chúng ta uống rượu, cảm giác buồn khi uống quá chén. Những khổ thọ và lạc
thọ tích cực, không thuộc về nhục dục: Ví dụ, cảm giác an lạc khi tâm ít phiền
não, khi ngồi thiền ở một nơi thanh tịnh, cảm thấy buồn khi thấy người nào đó bị
người khác áp bức v.v…
Theo
dõi những biểu hiện của những cảm xúc và tình cảm của chúng ta, chúng ta có thể
học cách kiểm soát chúng, trở nên ít phụ thuộc vào các yếu tố của thế giới bên
ngoài liên tục đánh lạc hướng chúng ta. Cách kiểm soát các cảm xúc cũng giúp
chúng ta quán sát các nguyên nhân gây ra 'khổ thọ’ và ‘lạc thọ’ tiêu cực để loại
bỏ chúng dần dần.
‘tỉnh thức đối với tư tưởng’
Tiến
trình suy nghĩ của một người bình thường không có phương hướng. Thường thì những
suy nghĩ dường như đến từ viễn tưởng, tạo ra tiếng ồn liên tục trong đầu. Bộ
não của con người ngày nay thường có một lượng thông tin khổng lồ đến từ tất cả
mọi phía. Thường thì chúng ta không nhận ra ngay rằng tiếng ồn này vốn thúc đẩy
chúng ta phải suy nghĩ về bất cứ điều gì.
Trước khi chúng ta tiếp nhận bất kỳ loại thông
tin nào, nó xuyên qua nhiều ‘bộ lọc’ gồm niềm tin, kiến thức, kinh nghiệm của
chúng ta, và, tất nhiên, cả những quan điểm của người khác-nhiều người thì hầu
như cố gắng một cách khó khăn để áp đặt chúng ta về cái nhìn của họ đối với
tình huống. Nói một cách rõ hơn, nó hoạt động như là sự kiểm duyệt, nhưng trên
một mức độ sâu hơn. Nó xảy ra rất thường xuyên mà chúng ta không nắm bắt nhiều điều
hệ trọng đối với thực tế, rằng có bao nhiêu ‘bộ lọc’ ý tưởng của chúng ta xuyên
qua trước đó. Dĩ nhiên, điều đó đưa ra rất nhiều câu hỏi của các loại sau đây: ‘có
phải đó là tất cả những suy nghĩ của chúng hay không?’; 'nó là phản ứng của
chúng ta?'; ‘những ham muốn của chúng ta là thật hay không?’; "Và nó là giải
pháp của chúng ta? '; 'Hoặc chúng bị áp đặt bởi một ai đó hoặc một điều gì đó từ
bên ngoài?’ (Sangharakshita) Hiểu những điều đó là sự ‘tỉnh thức đối với tư tưởng’
một cách cách rõ ràng, hỗ trợ chúng ta tìm ra được tư duy tích cực.
'tỉnh thức đối
với người khác’
Sự
tương tác với người khác là rất quan trọng đối với Phật giáo, một phần chức năng
khác quan trọng của 'chánh niệm' là nhận thức về người khác. Người khác thường
được nhận thức bởi chúng ta như là một loại đối tượng bên ngoài vốn có nhiều
tính năng hơn so với các đối tượng khác. Điều này thường là khó khăn cho chúng
ta hình dung rằng mỗi người trên quả địa cầu này hầu hết chỉ là cùng một chiều
trong những suy nghĩ và cảm giác; mọi người đều có cảm xúc và nhu cầu, kế hoạch
và ý tưởng, nỗi sợ hãi và niềm đam mê riêng của mình, đều được dựa trên cùng một
nguyên tắc qua các thời đại. Như đã đề cập ở trên, ‘tỉnh thức về người khác’ sẽ
trợ giúp thiết lập truyền thông, chuyển biến nó với một cấp độ mới, không thể
tiếp cận nó mà không thực hiện nó hoàn toàn. Sự tìm tòi và đạt tới sự hiểu biết
củng nhau như thế sẽ khiến cho mọi người có thể giao tiếp trên một cấp độ thực
sự mới, cung ứng sự tượng trợ với nhau tốt hơn, và chấm dứt bất kỳ sự kích động
nào với những xung đột không cần thiết, và tránh đuợc bất kỳ sự hiểu lầm nào đó.
‘tỉnh thức
đối với thực tại’
Cấp
đột thứ tư và cuối cùng của sự tỉnh thức, nơi mà mọi người có thể dừng lại, và là
điều mà giáo lý của Đức Phật dẫn dắt chúng ta đến - là 'sự tỉnh thức về thực tại’.
Như nó có thể được nhìn thấy ở trên, mỗi cấp độ trong đó đòi hỏi tiến trình phức
tạp hơn nhiều trong việc đưa đến sự đầy đủ 'chánh niệm'. Như bước đầu tiên cần sự
tỉnh thức về các đối tượng vật lý, tự nhiên nhiên xung quanh chúng ta, và tất cả
những điều mà chúng ta đã bằng cách nào đó đi qua. Bước thứ hai đòi hỏi sự nỗ lực
nhiều hơn nữa để hiểu rằng chúng ta là những sinh vật được cấu tạo bằng thịt và
máu, nhưng đồng thời có khả năng suy nghĩ và cảm nhận. Bước thứ ba đòi hỏi
chúng ta tỉnh thức về người khác, mở rộng phạm vi được xác định bởi hai cấp độ
đầu tiên (Sangharakshita). Mức độ thứ tư – ‘tỉnh thức đối với thực tại’ được
xem là khó khăn nhất để đạt đến, bởi vì nó bao hàm ba cấp độ trước, mở rộng nhiều
hơn, chuyển tải nhận thức của thực tại toàn thể, sự tỉnh thức của mỗi thành phần
cá nhân về thực tại này, và của mỗi tương tác của chúng.
“Trong Phật giáo, thực tập Chánh niệm
về thực tại là ý thức những gì đang có mặt ở đây, và chúng ta cũng có thể chọn bất
kỳ đối tượng Chánh niệm cho chính mình. Chúng ta có thể ý thức về một bông hoa
hay một đám mây, hoặc hơi thở của chúng ta. Năng lượng của Chánh niệm bao hàm
năng lượng của sự tập trung. Khi Chánh niệm và sự tập trung có đủ sức mạnh,
chúng ta có cái nhìn đầy tuệ giác. “chúng ta hiểu thấu bản chất về những gì
đang ở đây; chúng ta đột phá vào bản chất của thực tại.”[7]
Tỉnh thức những gì hiện tại, ngay tại đây, ngay bây giờ thì không phải là sự mơ
tưởng một tương lai hay hoài vọng quá khứ. Chánh niệm là ôm lấy thực tại, và
thực tại không còn bị chia cắt bởi nhị nguyên, và sinh và tử được nhìn trong sự
tiếp diễn tương tức.
Ngoài ra, việc thực hành Chánh niệm
thường xuyên có tác động lợi lợi ích đáng kể đối với sức khỏe. Một nghiên cứu
mới của các nhà khoa học tại tại Wisconsin, Spain, and France đã báo cáo bằng
chứng đầu tiên về biến đổi phân tử cụ thể trong cơ thể sau một thời gian tu tập
chánh niệm.
Sự nghiên khảo sát về những ảnh hưởng của
một ngày thực tập chánh niệm sâu sắc trong một nhóm của các thiền giả có kinh
nghiệm, và so sánh với một nhóm gồm những đối tượng chưa qua kinh nghiệm thực
tập. Sau tám giờ thực hành chánh niệm, những thiền giả đã cho thấy một loạt các
khác biệt về gene và phân tử, bao gồm cả mức độ thay đổi của cơ quan điều tiết
gene điều tiết và giảm lượng mức độ của các gene gây viêm, điều này tương quan
với sự phục hồi vật lý nhanh hơn từ một tình huống căng thẳng.
"Tốt nhất đối với kiến thức của chúng ta,
đây là bài viết đầu tiên cho thấy sự thay đổi nhanh chóng trong sự biểu hiện
gene trong các môn học liên quan đến thực hành thiền chánh niệm.” (Richard J.
Davidson)
"Thú vị thay, những thay đổi đã được thấy
trong khảo sát, các gene này có những mục tiêu hiện tại của các loại thuốc
chống viêm và giảm đau." (Perla Kaliman) - The study was published in the
Journal Psychoneuroendocrinology.
Chánh niệm có khả năng
chữa lành vết thương của cơ thể thân và tâm; khi Chánh niệm có mặt, thực tại
được nhìn trong thế duyên sinh, không bị ràng buộc bởi tư duy võ đoán, hay bị
che khuất bởi bản ngã. Ở đây cánh cửa tự do bắt đầu mở.
[1] 巴利大藏经•长部》(卷22《大念处经》):“諸比庫,此一行道,能清淨有情,超越愁、悲,滅除苦、憂,得達如理,現證涅盤,此即是四念處。
[2] DN 22, Maha-satipatthana
Sutta: The Great Frames of Reference
[3]Sangharakshita, P. 87
[4] Ibid, p.88-89
[5] Ibid, p.89-91
[6] DN 22,
Maha-satipatthana Sutta: The Great Frames of Reference
[7] Thich Nhat Hanh, Body and Mind Are One
No comments:
Post a Comment