
Phần
thứ hai của Bát Chánh Đạo là Chánh tư duy (samyak-saṃkalpa / samma sankappa), cũng
có nghĩa là ‘chủ tâm đúng’, ‘càm xúc hoàn hảo’ và nhiều ý nghĩa khác. Thực tế từ
này là 'saṃkalpa' có nghĩa là 'ý'; như thế, nó sẽ không chính xác lắm khi giải
thích 'samyak-saṃkalpa' chỉ giới hạn với ý nghĩa của tư duy đúng.
Có thể thích hợp hơn khi gọi nguyên tắc này là
'Chánh ý’ hoặc ‘Thiện cảm’, vì nó phù hợp lĩnh vực cảm tính và xoay chuyển của bản tính
con người với Chánh kiến. Chánh tư duy là trí tuệ tu tập ở vị trí thứ hai: Nó có
công dụng liên kết giữa Chánh kiến và sáu giai đoạn sau. Ngoài ra, dựa trên sự
phân chia của Bát chánh đạo với sự 'Kiến đạo’ và 'Tu đạo’ như được thảo luận ở
trên, Chánh tư duy là giai đoạn đầu tiên
của con đường Tu đạo. Dĩ nhiên, đây không phải là ngẫu nhiên: 'samyak-saṃkalpa'
dạy chúng ta làm thế nào để tu tập ý chí của chúng ta và quán sát những cảm xúc
của chúng ta làm sao phù hợp với Chánh kiến, bởi vì, như chúng ta đã biết, bất
kỳ niềm tin và bất kỳ khát vọng nào cũng cần được hỗ trợ bằng những cảm xúc
tương ứng. Như Đức Phật nói với các đệ tử của ngài: "Và Chánh tư duy là gì?
Là tư duy về việc xả ly, về sự giải thoát
từ ác ý, tư duy về sự vô hại: Đây được gọi là Chánh tư duy."[1]
Chánh Tư duy có thể được chia thành hai phương
diện, đầu tiên là ‘phương diện tiêu cực của Chánh ý’. Nó bao gồm ba khái niệm:
'naiskramya' - chẳng ham muốn, 'avyapada' - chẳng hận thù, và 'avihimsa' - Bất
hại. Ở trong mỗi yếu tố này thì vô cùng quan trọng.
Như vậy, 'naiskramya' ngụ ý từ bỏ tham lam với
một cái nhìn thanh tịnh hơn về thế gian. Điều này đặc biệt đúng với thế giới
ngày nay, nơi mà mọi người không thể hình dung được một cuộc sống bình thường
mà không có những gì (chẳng hạn như một cái điện thoại, máy tính, xe hơi, và v.v…).
Toàn bộ hệ thống tư bản được xây dựng trên sự sản xuất liên tục và sự hài lòng
của những mong ước, đam mê và ham muốn. Ngày càng có nhiều sản phẩm và dịch vụ
mới xuất hiện hàng ngày trên thị trường và bắt mắt chúng ta, thực tế, việc sử dụng
các công nghệ quảng cáo mới nhất, các nhà sản xuất không ngừng cố gắng đánh thức
ham muốn bên trong chúng ta để sở hữu những sản phẩm mới đó, nếu chúng nghĩ về điều
này, chúng ta không cần nhiều thứ. Ngược lại, như chúng ta đã thấy, tất cả những
ham muốn chỉ ném chúng ta xa hơn và xa hơn trên con đường của chúng ta đến đích
giác ngộ. Với sự phát triển của tiến bộ, những ham muốn được áp đặt đối với chúng
ta từ thời thơ ấu, và điều này ảnh hưởng đến tất cả các tầng lớp dân cư trong tất
cả các quốc gia trên thế giới. Dĩ nhiên, những cám dỗ với những ham muốn khác
nhau đã diễn ra ở tất cả mọi lúc, tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng chúng quá
tinh vi và phổ cập như bây giờ.
Điểm thứ hai, 'avyapada' ám chỉ sự vắng mặt của
sự hận thù và tức giận (sân). Nó được liên kết rất chặt chẽ với phần trước, mặc
dù nó không phải là luôn luôn có thể nhìn thấy ở cái nhìn đầu tiên. Trong hầu hết
các trường hợp, căn bản đối với sự tức giận là sự mong muốn không được thỏa
mãn. Trong giấc mơ vô vọng về một điều gì đó, chúng ta có thể vô cớ nổi giận với
bất cứ ai, tưởng tượng ông ấy hoặc bà ấy là tội lỗi đối với những sai lầm của
chính chúng ta. Một kết quả khác của những ham muốn mà không được đáp ứng là
ghen tị. Trong lịch sử, có rất nhiều điển hình khi người ta sa vào những điều
này và những cảm xúc tương tự, đã gây ra thiệt hại to lớn cho người khác và cả bản
thân họ, và số lượng thiệt hại này là chỉ phụ thuộc vào số lượng tài lực mà họ đã
sở hữu. Chúng ta nên lưu ý rằng những khía cạnh tiêu cực được kết nối với nhau
chặt chẽ, và một cách cơ bản, cái này là một hệ quả của cái khác. Do đó, nếu một
người bình thường, người ấy cũng có lòng tham lam, hoặc có thể ngược lại:
"Có trường hợp một người nào đó không có lòng tham lam. Ông ta không thèm
muốn những đồ đạc của người khác, ông ta suy nghĩ: 'Ồ, tại sao những gì thuộc về
người khác sẽ là của tôi!' Ông ta không có ‘tà tư duy’ và không mắc phải sai lầm
trong tư duy của chính tâm ông. (Ông ta nghĩ )‘Những tâm trạng như thế này được
giải thoát khỏi tình trạng thù địch, thoát khỏi áp bức, thoát khỏi phiền não,
và ước mong chúng được duy trì một cách dễ dàng!"[2]
Điểm cuối cùng về 'phương diện tiêu cực của Chánh
ý như chúng tôi đã nói là ‘avihimsa’ (bất hại). Tánh ác thường tồi tệ hơn ác ý
đơn giản, vì nó ngụ ý việc gây đau khổ cho những chúng sinh khác. Gây ra đau đớn
và khổ não cho chúng sanh khác, những người bạo vui thích với tiến trình này, đó
là chống lại tự nhiên. Tuy nhiên, thông thường việc ác có thể xảy ra một cách
vô thức vì ngu dốt hay sự hiểu lầm. Trong thế giới ngày nay, nhờ sự ra đời của
truyền hình và Internet, từ thời thơ ấu tâm trí của chúng ta là dưới sự áp lực
không ngừng. Đặc biệt, nhiều trẻ em đã nhìn thấy những tin tức trên truyền hình
hoặc những phim hoạt hình được xem, cố gắng thi đua theo các anh hùng với những
tập phim trong những trò chơi games của chúng, mức độ bạo lực trong đó thường
là cao hơn nhiều so với bình thường. Như vậy, từ thời thơ ấu mỗi người chúng ta
được thấm nhuần với một thái độ khoan dung hơn so với hiện tượng ngày nay. Và,
tất nhiên, người ta không phải luôn nhìn thấy vấn đề này dẫn dắt những điều bất
thiện của người khác phát triển. Vì vậy, những gì mà một khi đã là chỉ trò chơi
vui trẻ con, về sau có thể phát triển thành một sự đam mê có nhiều nguy hại hơn
trong tuổi trưởng thành.
Khía cạnh thứ hai của Chánh tư duy là ‘phương
diện tích cực của Chánh ý’, gồm có những điểm tích cực của ‘naiskramya’ (xả ly),
‘avyapada’ (tâm từ), và ‘avihimsa’ (bất hại), đó là ‘dana’ - bố thí, cúng dường, lòng quảng
đại, ‘maitri’ - tình thương, thân ái, và ‘karuna’ - sự đồng cảm, lòng từ bi. Chánh
tư duy cũng bao hàm 'sraddha', đó là tín và kính, 'upeksa' ('upekkha') xả, và
'mudita', có nghĩa là hỷ. Bốn tư duy - dana, maitri, karuna và upekksha trong sự
hoạt dụng của chúng, tác thành ‘Brahma-vihara’, còn được gọi là ‘Tứ vô lượng tâm’
(Từ vô lượng-sa. maitry-apramāṇa, pi. metta-appamaññā. Bi vô lượng-sa. karuṇāpramāṇa,
pi. karuṇā-appamaññā. Hỉ vô lượng-sa. muditāpramāṇa, pi. muditā-appamaññā. Xả vô
lượng-sa. upekṣāpramāṇa, pi. upekkhā-appamaññā), và ứng dụng những nguyên tắc đó
là phương pháp cơ bản của mối tương quan giữa Phật giáo và thế giới, đó là những
gì mà chúng tôi mong ước.
Dana (bố thí) là một trong những đức hạnh quan
trọng nhất của Phật tử. Dana không chỉ dựa trên sự tu tập trực tiếp về những giá
trị mà có thể nó dường như được thấy, nhưng đặc biệt là về những cảm xúc mà
chúng ta cảm giác khi chúng ta đang cho ai một cái gì đó. Để hiểu rõ hơn về những
nguyên tắc hoạt dụng của nó, chúng ta có thể làm nổi bật một vài hình thức của nó,
và trong tất cả ý nghĩa trong Phật giáo. Tất nhiên, điều đầu tiên đặc biệt và
đó là rõ ràng nhất, là sự bố thí tài sản. Theo nguyên tắc của dana, bạn cần
chia sẻ với những người khác tất cả những lợi ích mà bạn có thể chia sẻ, bởi
vì, trong ý nghĩa khác, nó giúp bạn thoát khỏi tâm tham trước với các pháp. Điều
quan trọng mà dana cũng như nhiều khía cạnh khác của giáo lý Đức Phật không phải
là một nguyên tắc trừu tượng hay truyền thống, nó là một trong những nguyên tắc
cơ bản đối với quan hệ trong xã hội, và đã thay đổi thế giới tốt đẹp hơn như chúng
ta thấy.
Ngoài giá trị vật chất mà chúng ta có thể chia
sẻ, ví dụ, trí tuệ của chúng ta vốn rất quan trọng đối với Phật giáo khi trí tuệ
không được độc quyền bởi một cá nhân, và sẽ là di sản của nhân loại mà tất cả mọi
người phải có quyền truy cập. Chúng ta cũng có thể truyền đạt lại với lòng tin
của chúng ta, hỗ trợ mọi người trong những lúc họ gặp khó khăn bằng việc thực hành
bố thí. Dĩ nhiên, chúng ta còn có thể tặng cho một người nào đó thời gian và
năng lượng của chính mình, ngay cả cuộc sống và sức khỏe của chúng ta, và, tất
nhiên, món quà quan trọng nhất của tất cả là được xem như một trong những món
quà của chân lý - món quà của sự hiểu biết và trí tuệ, dẫn dắt chúng ta tới ánh
sang giác ngộ. Như vậy, trên thực tế, bất kỳ tặng phẩm nào có liên quan đến
dana, dù tầm quan trọng và số lượng của nó như thế nào, như chúng ta biết, trong
đó không cần phải luôn luôn đối xứng với ý tưởng hiện đại về những sự đóng góp mà
thế giới ngày nay đang bị thu hẹp chỉ vì của cải vật chất.
Maitri (Sanskrit) hoặc Metta (Pali) trong Phật
giáo có nghĩa là tâm từ, sự thân thiện, bằng hữu, thiện chí, hay lòng tốt. Ngược
lại với tư tưởng phương Tây hiện đại là tình yêu, tình thương (love), thường
liên quan đến việc tìm kiếm một người bạn tình với gia đình. Maitri ngụ ý một cảm
giác giống như tình yêu dành cho người bạn thân nhất mà không có ý nghĩa tình dục.
Lý tưởng nhất, tình thương không chỉ dành cho một người mà bao quát toàn thể thế
giới, đó là những gì chúng ta phải tìm kiếm, không ngừng phát triển cảm giác này.
Vì vậy, Phật tử chân chính luôn mong muốn những điều tốt lành nhất cho mọi chúng
sinh, và giúp đỡ mọi cách mà bản thân có thể làm.
"Ở đây, này các Tỳ kheo, một vị Tỳ kheo
tu tập yếu tố tuệ giác chánh niệm cùng với lòng từ và những yếu tố tuệ giác tương
ưng của sự quán chiếu các trạng thái, năng lực, hỷ lạc, an tịnh, chú tâm, bình
thản cùng với lòng từ dựa trên sự xả ly, định tĩnh, dẫn đến sự hàng phục hoàn
toàn. Nếu hành giả muốn trụ ở cảm thọ yểm ly trong những gì không phải là yểm
ly, vị ấy trụ trong cảm thọ yểm ly như thế. Nếu hành giả muốn trụ ở cảm thọ bất
yểm ly trong những gì là yểm ly, vị ấy trụ ở cảm thọ bất yểm ly như thế. Nếu hành
giả muốn trụ ở cảm thọ yểm ly cả trong những gì là yểm ly và những gì không phải
là bất yểm ly, nếu hành giả muốn trụ cảm thọ bất yểm ly cả trong những gì ...,
vị ấy trụ như thế. Nếu hành giả muốn tránh xa cả yểm ly và bất yểm ly, trụ ở tâm
định tĩnh, chánh niệm và nhận biết rõ ràng, hoặc đạt được tâm tự do được gọi là
vẻ ‘đẹp’ mà vị ấy thực hành theo đây. Ta tuyên bố rằng tâm giải thoát của lòng
từ có vẻ đẹp đối với sự vi diệu của nó. Đây là sự thành tựu của một vị Tỳ kheo
trí tuệ thâm chứng mà không có sự tự do nào cao hơn nữa." [3]
Nguyên tắc tiếp theo liên quan đến ‘phương diện
tích cực của Chánh ý’ gọi là Karuna, có nghĩa là tâm bi. Theo lời dạy của Đức
Phật, tâm bi như một cảm thọ là một tình thái rất giống với tình yêu nhưng cảm
giác chỉ trong một mối quan hệ đối với tất cả loài hữu tình-những chúng sanh
đang gặp phải một vài sự khốn khổ trong cuộc sống của mình, và vì điều này,
tình thương yêu đối với chúng sanh được sinh trưởng. Đây là tư duy tâm linh phát
triển nhất trong tất cả cảm thọ quan hệ với con người. Từ quan điểm của nhiều hành
giả Phật giáo, tâm bi là điểm quan trọng nhất trên con đường đến giác ngộ, vì nhờ
vào tâm bi mà Đức Phật bắt đầu con đường giác ngộ. Một số người cũng tin rằng để
đạt được giác ngộ là chỉ đơn giản tu tập và thực hành tâm bi, bởi vì con đường
giáo dục của Đức Phật là điểm đầu tiên dựa trên sự thực hành và tương trợ lẫn
nhau, chỉ đạo việc ứng dụng ngay trực tiếp, chứ không phải trên sự nuôi dưỡng và
sự gia tăng về kiến thức lý thuyết về Phật giáo.
Đó là những gì Đức Phật nói về mục tiêu tu tập
giải thoát bằng tâm bi: "Trong đây, các Tỳ kheo, một nhà sư tu tập pháp chánh
niệm ... an tịnh phối hợp với tâm bi ... hành giả trụ như thế, an tịnh, chánh
niệm, nhận thức rõ ràng, hoặc bằng cách vượt thoát hoàn toàn tất cả nhận thức về
các đối tượng, lắng xuống những nhận thức của các phản ứng cảm thọ, buông xả những tạp niệm, tư duy ‘không gian là
vô hạn’, hành giả chứng và trụ trong phạm vi không gian vô hạn. Ta tuyên bố rằng
tâm tự do bởi lòng bi có phạm vi không gian vô hạn đối với sự vi diệu của nó. Đây
là sự thành tựu của một vị Tỳ kheo trí tuệ thâm chứng mà không có sự tự do nào
cao hơn nữa."[4]
Phần kế tiếp về 'phương diện tích cực của ‘Chánh
ý’ là Mudita-‘hỷ’- đó là một cảm giác của niềm vui phát sinh khi nhìn thấy niềm
vui của người khác, và chia sẻ niềm vui với người. Điều này có vẻ đơn giản với
nguyên tắc thuộc về trực giác, nhưng trong sự thực hành nó không phải là luôn
luôn có giá trị, đặc biệt là khi đối đầu với những quan điểm của thế giới
phương Tây, nơi mà người ta thường xuyên nghiêng về những cảm xúc tiêu cực, chẳng
hạn như sự ghen tị khi nghe về sự thành công của người khác. Thái độ hoài nghi rất
phổ biến trong thế giới ngày nay, đúng hơn là sự hả hê đối với những thất bại của
những người khác và lòng ghen tị với thành công của người; chẳng phải nghi ngờ gì
cả, nó là một cách tiếp cận ích kỷ. Vấn đề là, thay vì nguyên tắc cạnh tranh,
nơi mà tất cả mọi người muốn lấy vị trí đầu tiên, trước người khác, Đức Phật
cho chúng ta nguyên tắc hợp tác toàn cầu dựa trên một sự hiểu biết lẫn nhau, yêu
thương và tôn trọng sản xuất nhiều hơn từ một quan điểm toàn cầu. Tuy nhiên,
con đường này có nhiều mức độ ngược lại với những điều kiện lý tưởng của chủ
nghĩa tư bản, nơi mà người ta sản xuất nhiều hơn và nhiều lợi ích mới chỉ dành cho
sự thỏa mãn của chính họ, sự cạnh tranh trong kinh doanh vô cảm này.
"Ở đây, các Tỳ kheo, một hành giả tu tập
các yếu tố tuệ giác chánh niệm ... sự an tịnh phối với tâm hỷ ... Vị ấy trụ như
thế, an tịnh, chánh niệm, nhận thức rõ ràng, hoặc bằng cách vượt thoát hoàn toàn
tất cả nhận thức về không gian vô hạn, tư duy ‘ý thức là vô hạn’, vị ấy chứng và
trụ trong phạm vi của ý thức vô hạn. Ta tuyên bố rằng sự tự do bởi tâm hỷ có phạm
vi không gian vô hạn đối với sự vi diệu của nó. Đây là sự thành tựu của một vị
Tỳ kheo trí tuệ thâm chứng mà không có sự tự do nào cao hơn nữa."[5]
Upekksha (捨/xả) - một thuật
ngữ dành cho nội tâm yên tịnh - là một trạng thái thanh thản của tâm, đó là
tình trạng chung của con người; tuy nhiên, do hậu quả của sự tiến hóa, loài người
đã bắt đầu ngày càng quên điều đó. Đối với tôi, tất cả đã tham gia vào cuộc
cách mạng kỹ nghệ của thế kỷ XX, khi ngày càng có nhiều khám phá mới đã quay cuồng
với nhịp điệu rất nhanh của cuộc sống hiện đại, mà đôi khi có vẻ hoàn toàn
không thể thoát ra khỏi nó, và vì đó, nhiều người nghĩ rằng những nỗi lo lắng và
căng thẳng liên tục là đặc điểm đầu tiên đối với con người.
Trong
sự thực hành, buông xả là tư duy không câu chấp vào bất cứ pháp nào, buông bỏ những
tham lam ích kỷ, coi mình là trung tâm. Bình thản trước sự khinh chê, phỉ báng…của
người khác là đặc tính của tâm xả; không vướng mắc vào tài, sắc, danh lợi,… là
trí tuệ của tâm xả, tư duy không mắc kẹt vào đối đãi của nhị nguyên, ở trạng thái
của ‘không’, như thế hành giả sẽ không bị những đau khổ và phiền não trói buộc,
và mới có thể sống trong trạng thái an lạc và hòa bình.
"Ở đây, các Tỳ kheo, một hành giả tu tập
các yếu tố tuệ giác chánh niệm, quán sát những tư tưởng, năng lực, sự hỷ lạc,
yên tịnh, chú tâm, bình thản với tâm xả dựa trên sự xả ly, định tĩnh, dẫn đến sự
nhiếp phục hoàn toàn. Nếu hành giả muốn trụ ... ông ta trụ như vậy, buông xả,
chánh niệm và nhận thức rõ ràng. Hoặc bằng cách vượt thoát hoàn toàn phạm vi của
ý thức vô hạn, ý nghĩ ‘không có gì’, hành giả chứng và trụ trong trạng thái của
‘không’. Ta tuyên bố rằng sự tự do từ tâm xả có phạm vi ‘không’ với sự vi diệu
của nó. Đây là sự thành tựu của một vị Tỳ kheo trí tuệ thâm chứng mà không có sự
tự do nào cao hơn nữa."[6]
Như đã được đề cập ở trên, ‘sraddha’ có nghĩa
là tín và sự tin tưởng. Đừng nhầm lẫn nó với các khái niệm của phương Tây về đức
tin, theo nghĩa của ‘sraddha’ ở đây là Chánh tư duy đối với sự thật và sự ứng dụng của chúng ta với
nó. Những điều được bao gồm trong khái niệm của ‘sraddha’ (tín tâm), là đối với
ba ngôi ‘Tam bảo’ của Phật giáo, gồm có Phật, Pháp và Tăng thân.
Tựu trung Chánh tư duy bao hàm 3 ý nghĩa: Xuất
ly tư duy, vô nhuế tư duy và bất hại tư duy. ‘Xuất
ly tư duy’ là chỉ cho sự viễn ly tham nghiệp, ham muốn; ‘vô nhuế’ tư duy là chỉ
cho sự diệt trừ sân hận, sinh khởi từ tâm; ‘vô hại’ tư duy là chỉ cho sự diệt
trừ sát hại, sinh khởi bi tâm. Và Tư duy cũng được chia thành ba loại: Tà tư
duy, Lậu chánh tư duy (āsava
dhammā), và Vô lậu chánh tư duy (no-āsava dhammā). ‘Tà tư duy’
là tư duy tham dục, tư duy sân giận, tư duy có hại cho bản thân và người. khác. ‘Lậu chánh tư duy’ là tư duy xuất ly tham dục, tư duy
không sân giận, tư duy bất hại. Và ‘Vô lậu
chánh tư duy’ là tư duy thành tựu Thánh tâm, Vô lậu tâm, là tư duy của một bậc
Thánh. Tư Duy này là kết quả tu tập tinh chuyênThánh đạo.[7]
Về phương diện xã hội, ‘Lậu chánh tư duy’ là
tư duy có năng lực ngăn ngừa những cảm giác tiêu cực, những ham muốn bất thiện,
chặn đứng sự bộc phát của tâm sân giận và gây tổn hại cho mình và người. ‘Lậu
chánh tư duy’ cũng là tư duy phát triển một con người với tâm hồn hoàn hảo; xã
hội lý tưởng như thế nào nếu ai cũng có được tư duy như thế, và khi mỗi người
ít tham, ít sân và không tổn hại lẫn nhau!
[1] SN 45.8, Thanissaro Bhikkhu
[2] AN 10.176, Cunda
Kammaraputta Sutta
[3] SN 46.54, Mettam Sutta: The Brahma-viharas, translated from the Pali
by Maurice O'Connell Walshe
[4] Ibid…
[5] Ibid…
[6] Ibid…
[7] 《巴利大藏經•長部》(卷22《大念處經》):“諸比庫,什麼是正思惟呢?出離思惟、無恚思惟、無害思惟。諸比庫,這稱為正思惟。 《清淨道論》第九品:“以維持有情的利益行相為相。取來有情的利益為味(作用),惱害的調伏為現起(現狀),見有情的可愛為足處(近因),嗔恚的止息為(慈的)成就,產生愛著為(慈的)失敗。 《清淨道論》第九品:“以拔除有情之苦的行相為相,不堪忍他人之苦為味,不害為現起 見為苦所迫者的無所依估為足處,害的止息為(悲的)成就,生憂則為(悲者)失敗.” 《巴利大藏经•中部》(卷117):“欲思惟、嗔思惟、害思惟,諸比庫!此等為邪思惟。” 《巴利大藏經•中部》(卷117):“出離思惟、無嗔思惟、無害思惟,諸比庫!此等是正思惟之有漏而有福分、有持依果.” 巴利大藏經•中部》(卷117):“以成就聖心、無漏心、聖道者,修習聖道結果之思擇、思惟、專注、細專注、心之專精、語行,諸比庫!此等為正思惟之聖、無漏、出世而有道支者。”
No comments:
Post a Comment