• Tuổi Thơ

    Tuổi Thơ

    22/01/2016 - 0 Nhận xét

    Tuổi thơ Mộng mơ Chú cuội gốc…

  • Thoáng Xuân

    Thoáng Xuân

    29/03/2018 - 0 Nhận xét

    Xuân ơi xuân mùa xoay vần cũ mới Nhịp vui…

  • CHÚNG TA BIẾT GÌ?

    CHÚNG TA BIẾT GÌ?

    21/10/2019 - 0 Nhận xét

    Chúng ta biết tất cả những gì chúng ta đã huân…

  • Dualism and Monism

    Dualism and Monism

    16/05/2023 - 0 Nhận xét

     Thich nu Tinh QuangWhen a moon (monism/一元)…

Monday, March 20, 2017

THỰC HÀNH PHẬT PHÁP TRONG NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Thích Nữ Tịnh Quang
 Cấu trúc nền tảng nhất của xã hội là hôn nhân. Hôn nhân là một sự thỏa thuận hoặc thể chế của xã hội được thành lập vì nhu cầu lợi lạc và hạnh phúc riêng của con người. Thể chế này có chức năng duy trì sự hài hòa và trật tự trong quá trình sinh sản, và do đó tách biệt xã hội loài người từ động vật. Mặc dù không được nói nhiều trong kinh điển Phật giáo về vấn đề chế độ một vợ một chồng và chế độ đa thê, người sống theo thế tục được khuyên nhắc nên giới hạn với một người phối ngẫu. Đức Phật đã không lập ra bất kỳ quy tắc nào cho một cuộc sống hôn nhân, nhưng ngài đã cho một vài điều khuyên nhắc liên quan đến phương cách tạo ra một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc hơn. Trong lời giảng của ngài, nhiều điều chỉ ra rằng chế độ một vợ một chồng là khôn ngoan hơn, tốt đẹp hơn và dễ trung thành  hơn đối với người phối ngẫu, không làm tổn thương cảm xúc của một ai đó khi không có sự thích thú với các đối tượng khác.[1]   
 Đức Phật nói rằng một trong những lý do sâu xa đối với sự thất bại của người đàn ông là quan hệ yêu đương với người phụ nữ khác. Ở đây rõ ràng ngụ ý rằng người phụ nữ nếu bước vào cuộc tình với nhiều người đàn ông, cô ta cũng phải đau khổ. Người ta cần ý thức những khó khăn, thử thách và khổ nạn mà những gì người ấy phải gặp để duy trì cuộc sống gia đình. Ý thức này có thể được tăng trưởng bởi nhiều lần nếu bạn chạm trán với chúng trên kinh nghiệm của những khó khăn khác được tạo ra bởi chính mình. Hiểu được nhược điểm của con người, Đức Phật đưa ra một trong những quy tắc dạy cho hàng Phật tử kiềm chế các hành vi tình dục và phóng đãng. Giới thứ ba trong năm giới cấm được thực hành bởi các Phật tử: Kamesu micchacara veramani sikkhapadam samadiyami, “Tôi nguyện tu tập giới cấm để hạn chế những sai lầm đối với những ham muôn.”
 Điểm nhìn của Phật giáo về hôn nhân giống như một xã hội dân chủ là rất tự do: hôn nhân là một vấn đề riêng tư, không phải là một nhiệm vụ bị áp đặt bởi tôn giáo. Trong Phật giáo, không có quy tắc khuyến khích người ta kết hôn, sống một mình hoặc chủ nghĩa độc thân. Không có quy định đòi hỏi Phật tử sinh con hoặc kềm chế sinh sản, hoặc hạn chế số lượng con cái. Phật giáo cho rằng mỗi con người đều có quyền tự do để tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến hôn nhân.
 Và có một câu hỏi đưa ra, nếu không có sự giáo dẫn trực tiếp liên hệ đến hôn nhân, tại sao chư Tăng-Ni Phật giáo không có kết hôn? Lý do chính là Tăng-Ni đã chọn một lối sống như thế là vì mục đích tự do cho chính mình và phục vụ quần chúng; độc thân là một phần của nếp sống này. Những người đã từ bỏ cuộc sống trần tục, tự nguyện từ bỏ mối quan hệ gia đình, không còn những trách nhiệm riêng tư của thế gian nhằm duy trì sự an lạc của tâm. Họ muốn cống hiến hoàn toàn cuộc sống của họ để phục vụ cho người khác và để đạt được sự giải thoát tâm linh của mình. Trong xã hội ngày nay, mặc dù các nhà sư Phật giáo có thể không tiến hành nghi thức hôn lễ cho Phật tử, họ có thể được mời chỉ để thực hiện những nghi lễ tôn giáo nhất định để chúc phúc cho cặp hôn phối. Điều này cũng có thể được thực hiện bởi chư Ni Phật giáo.[2]  
              Tình dục ngoài hôn nhân cũng là một vấn đề của xã hội ngày nay. Ngăn chặn hoặc hạn chế đối với những ham muốn là nguyên tắc đầu tiên của bất kỳ nền văn minh nào, bao gồm cả xã hội ngày nay của chúng ta. Nhưng cùng với điều đó, chúng ta đã bị ô nhiễm bởi bầu không khí tình dục xung quanh chúng ta và xuyên qua các phương tiện truyền thông quá phóng đại nhu cầu của cơ thể và tâm trí trong một sự thoả mãn tình dục. Như một kết quả của việc khai thác về những ham muốn tình dục bởi một số lực lượng ẩn mặt của xã hội; người trẻ ngày nay đã hình thành một xu thế tình dục khiến cho tâm họ đang hoàn toàn bị mờ tối bởi  sự che lấp của dục tình, và dục tình thì không bao giờ thỏa mãn; Đức Phật dạy: “Người  có nhiều ham muốn và tìm cách thỏa mãn lòng ham muốn đó giống như kẻ mắc bệnh phong cùi cứ thích gãi vào chỗ ngứa của mình.” Và kết quả là đau khổ hơn nữa.
              Trong đời sống, những mối quan hệ tình dục nên đặt ở vị trí rõ ràng của chúng, và ở đây, từ quan điểm của Phật giáo, bất kỳ sự hạn chế không tự nhiên hoặc sự lạm dụng không lành mạnh không nên được dung túng. Tình dục cũng phải được kiểm soát bởi ý chí, và nó là có thể nếu bạn đối xử với nó một cách khôn ngoan và cho nó một vị trí thích hợp trong đời sống. Trái ngược với những gì mà một xã hội hiện đại đang cố gắng để gây ấn tượng kích thích đối với chúng ta, tình dục không nên được xem là một phần quan trọng nhất của một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Những ai phục dịch cho thú vui riêng của mình, họ có thể trở thành kẻ nô lệ của sự áp lực dục tính, và như thế cuối cùng sẽ phá hủy tình yêu và sự tôn trọng đối với hôn nhân. Như trong mỗi phạm vi khác, Phật giáo khuyên nhắc cần có sự điều độ và hợp lý trong nhu cầu tình dục.[3]
   Hôn nhân là một sự hợp tác ràng buộc, trong đó một người nam và một người nữ thề nguyện bước vào đời nhau cho toàn bộ đời sống còn lại. Ba nguyên tắc chính mà một cặp vợ chồng cần xây dựng và phát triển là sự kiên nhẫn, khoan dung và hiểu biết trong khi tình yêu là nút thắt nối các đối tác với nhau để duy trì một gia đình hạnh phúc cũng như những yếu tố cần thiết. Dấu hiệu của một cuộc hôn nhân tốt là xử dụng từ ‘của chúng mình' hơn là 'của bạn' hoặc 'của tôi'. Một cặp vợ chồng tốt là mỗi đối tác nên mở lòng với nhau và không có gì bí mật. Khi có những bí mật, nó tạo ra một sự nghi ngờ, và sự nghi ngờ này là một yếu tố có thể tàn phá tình yêu trong bất kỳ sự thỏa hiệp hôn nhân trước đó. Sự nghi ngờ phát sinh ghen tuông, ghen tuông tạo giận dữ, giân dữ tạo ra căm hờn, và căm hờn biến thành thù địch và sự thù địch có thể dẫn đến một sự đau khổ lớn hơn như đổ máu, tự tử hoặc thậm chí giết người.[4]
Một cuộc hôn nhân hạnh phúc là được xây dựng trên nền tảng yêu thương, chung thủy và trách nhiệm. Đức Phật dạy rằng người chồng không được ngoại tình, đi đâu cũng cho vợ biết, cung cấp quần áo vàng bạc, nữ trang cho vợ, và  những vật trong nhà đều giao phó cho vợ. Cũng thế, người vợ cần biết ơn sự tôn trọng, hòa nhã và lòng trung thành của chồng mình. Hơn nữa, một người vợ đã được trao quyềntrong nhà và được ban tặng những trang sức. Người vợ phải trách nhiệm thực hiện bổn phận của mình thật tốt, cư xử khéo léo và tận tụy. Cô ta chung thủy với chồng và nồng hậu với bạn bè và các mối quan hệ. người vợ cần "bảo vệ những gì mà chồng mình làm ra," như thế cho thấy việc chăm sóc bất cứ điều gì mà người chồng đem đến cho người vợ.[5]  
 Ly thân hoặc ly dị cũng không bị ngăn cấm trong Phật giáo, mặc dù nhu cầu đối với điều này là cực kỳ hiếm nếu vợ chồng theo đúng hướng dẫn của Đức Phật. Người nam và người nữ là hoàn toàn tự do từ bỏ đối tác nếu họ không thể đạt được một thỏa thuận chung. Ly thân là cách tốt hơn cứ để cho chính bạn, vợ bạn và những đứa con của bạn phải chịu đựng đau khổ với thời gian quá lâu (Dhammananda). Ngoài ra, Đức Phật cũng khuyên người đàn ông lớn tuổi không nên kết hôn phụ nữ trẻ, bởi vì một người chồng già và một người vợ trẻ là rất khó tương thích, và có thể kích hoạt những khó khăn, bất hòa và sự thất bại không cần thiết.[6]  
 Xã hội ngày càng phát triển với mạng lưới của các mối quan hệ được đan xen và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi sự kết nối giữa con người là một sự cống hiến chân thành để thúc đẩy và bảo vệ các thành viên khác của cộng đồng hay nhóm. Hôn nhân đóng một vai trò thiết yếu trên mạng lưới phức tạp của những sự quan hệ được cung ứng sự ủng hộ và bảo vệ như thế. Từ một quan điểm của Phật giáo, một cuộc hôn nhân tốt nên nẩy nở và liên tục phát triển bằng sự hiểu biết, không phải bởi xung lực, từ sự cống hiến thực sự, chứ không phải chỉ đam mê. Thể chế hôn nhân cung cấp một nền tảng vững chắc cho sự phát triển của văn hóa; một cộng đồng tuyệt đẹp của hai người tương trợ nhau và không còn nỗi cô đơn, sợ hãi hay mất nhau. Trong hôn nhân, mỗi người bạn đời luôn cố gắng để bổ sung người kia, điều này nhằm mục đích đem lại sự can đảm và sức mạnh để biểu lộ sự hỗ trợ, nhìn nhận và đánh giá cao khả năng của các đối tác khác. Trong đời sống vợ chồng, không nên có sự phát khởi suy nghĩ rằng ai là người là quan trọng hơn. Một bổ sung khác là trong quan hệ là đối tác bình đẳng, biểu hiện hòa nhã, tự chủ, tôn trọng nhau, bao dung, bình tỉnh và sự ái kính.
 Một điều quan trọng khác trong hôn nhân đối với Phật tử là không có lý do gì để phản đối các biện pháp để phòng ngừa mang thai. Họ được tự do sử dụng cả biện pháp tránh thai cũ và hiện đại. Những người phản đối biện pháp tránh thai và cho rằng việc sử dụng cách phòng ngừa này là trái với pháp luật của Thiên chúa, nhưng cần hiểu rằng quan điểm này thì không có cách nào biện hộ được. Các biện pháp tránh thai được dùng để ngăn chặn sự xuất hiện của một chúng sanh mới. Việc sát hại trong trường hợp này không có xảy ra (akusala kamma) và hành động bất thiện không được thực hiện. Tuy nhiên, nếu người ta vi phạm bất kỳ hành vi nào nhằm sự ủy thác đối với hành động phá thai, hành vi này được xem là ác nghiệp, bởi vì phá thai là một việc tước đoạt sự sống của các sinh vật có thể nhìn thấy hoặc không nhìn thấy. Vì lý do đó, Phật tử tuân thủ giới đầu trong năm giới cấm, không có lý do hợp lý đối với việc phá thai.[7]  
 Giáo lý của Đức Phật cho rằng hành động cố ý giết người có ý định tương hợp với năm điều kiện. Những điều kiện này như sau: có sự hiện diện của một chúng sanh, có  sự hiểu biết hay nhận thức của [người giết] rằng sinh linh này là có sự sống, cố ý giết chúng sanh, tạo ra động lực để giết, cái chết của một sinh linh là kết quả của nỗ lực này.[8]  
 Ở thời điểm thụ thai, thực thể sống được hiện hữu, và do đó nó đáp ứng điều kiện đầu tiên trong bụng mẹ. Một vài tháng sau, người mẹ nhận ra rằng trong bụng cô ta có một cuộc sống mới, và vì vậy nó hội đủ điều kiện thứ hai. Rồi vì lý do nào đó, người mẹ muốn từ bỏ sự sống của sinh linh này đang nằm trong bụng mình, cho nên cô ta bắt đầu tìm kiếm một bác sĩ để phá thai, và do đó nó tương ứng với điều kiện thứ ba. Khi một bác sĩ thực hiện thao tác, điều kiện thứ tư đã hội đủ, và dẫn đến cái chết của một sinh linh; như thế năm điều kiện đã hội đủ. Kết quả đã vi phạm vào giới đầu tiên cấm sát sinh; vì thế hành động của việc phá thai này là tương đương với việc giết chết một người. Liên quan đến các biện pháp đối với việc phòng ngừa thai thì có tình trạng ngược lại: một thực thể sống trong trường hợp này không xuất hiện, do đó tất cả năm điều kiện này không hội đủ (Dhammananda). Theo giáo lý Phật giáo, chúng ta không có lý do để nói rằng chúng ta có quyền duy nhất để từ bỏ sự sống của một sinh linh khi nó đã hiện hữu.
 Trong một số trường hợp, người ta cho rằng họ bị buộc phải làm điều này vì lợi ích đối với hoàn cảnh riêng của mình. Nhưng chúng ta không thể biện minh cho việc phá thai, vì dù cách này hay cách khác họ cũng sẽ phải đối mặt với những hậu quả xấu (nghiệp quả). Ở một số nước, phá thai là hợp pháp, nhưng nó được thực hiện một cách đơn giản để khắc phục những vấn đề xã hội. Phật giáo dạy rằng không nên thờ ơ với các nguyên tắc đạo đức vốn là nhu cầu ích lợi của mọi người. Những nguyên tắc này được cho là điều tốt của tất cả nhân loại.
 Một vấn đề nhức nhối khác của xã hội là tự tử. Tước đoạt sự sống của chính mình trong bất cứ trường hợp nào là hành động sai lầm đối với quan điểm đạo đức và cả tâm linh. Tự sát vì những thất bại và thất vọng trong cuộc sống chỉ làm tăng trưởng sự đau khổ. Tự tử là một cách hèn nhát khi đối phó với các vấn đề cuộc sống. Trong bất cứ hoàn cảnh xấu nào mà người ta không thể chọn phương pháp tử tử nếu tâm trí của họ bình tĩnh và thanh tịnh. Bất kỳ ai ai đó rời bỏ thế giới này trong tâm trạng rối rắm và buồn chán, như thế người ấy khó có thể được tái sinh trong những điều kiện tốt hơn. Một lối thoát khỏi đời sống như vậy là một hành độn xấu  hay bất thiện nghiệp, bởi nó được khích động với tâm đầy ích kỷ, tham lam, sân hận, và quan trọng nhất là tâm phiền não. Những người tự tử có lẽ đã không học được nhận thức vấn đề của họ, hiểu được chân lý của cuộc sống và sử dụng khả năng tư duy một cách đúng đắn. Những người như vậy không thể ‘hiểu được bản chất của cuộc sống và những duyên hợp của thế gian mà họ đang sống’.  
 Vài người hy sinh tính mạng của mình vì một lý do, điều mà họ xem là tốt đẹp và cao quý. Họ hủy bỏ đời sống của chính mình bằng việc tự thiêu, sử dụng vũ khí hoặc nhịn đói. Những hành động này có thể được ai đó gọi là táo bạo và dũng cảm. Nhưng từ quan điểm của Phật giáo, nó không thể được chấp thuận. Đức Phật giải thích rõ ràng rằng trạng thái ý thức dẫn đến việc tự sát, chỉ đem đến đau khổ nhiều hơn. Một thái độ toàn diện như vậy một lần nữa chứng minh thế giới quan tích cực và khẳng định cuộc sống như thế nào là Phật giáo.[9]  
Khẳng định cuộc sống một cách lạc quan, chúng ta cần phải đối diện với những vấn đề tiêu cực, nhận thức gốc rễ của chúng, và tìm phương pháp khắc phục. Theo Phật giáo, sinh làm thân người là một cơ hội quí báu, và cần phải biết trân quí thân mình, biết cách tạo ra những thiện nghiệp cho hiện tại và tương lại. Nhận diện nguyên nhân tiêu cực gây đau khổ đều từ ham muốn của mình, chúng ta mới có cái nhìn đúng về thân tâm và ngoại cảnh trong một chiều hướng tích cực hơn.
"Nguyên nhân mọi khổ đau
Bắt nguồn từ
ham muốn
Nếu
ham muốn đoạn diệt,
Đ
au khổ cũng không còn.[10]
Như thế, khổ đau không phải bên ngoài mà ở bên trong chúng ta. Vấn đề của con người của xã hội sẽ được giải quyết khi mỗi một cá nhân đều giảm thiểu bớt những tâm ham muốn xuyên qua việc nhận chân được khổ đau và nguyên nhân của nó, và biết cách chuyển hóa mọi vấn đề của cuộc sống với một tâm thái an lạc thật sự.
Sống trong niềm vui, trong tình thương yêu,
Ngay
với những người thù ghét.
 Sống trong niềm vui, trong sự mạnh mẽ
Ngay cả trong
khi đớn đau.
 Sống trong niềm vui, trong niềm an lạc,
Ngay cả
những lúc khó khăn.
 Nhìn vào bên trong, tỉnh giác.
Giải thoát sợ hãi và tham trước
Nhận ra niềm vui nhẹ nhàng của cuộc sống quanh đây. (Dhammapada)


[1] Ven. K. Sri Dhammananda, “A Happy Married Life”
[2] Ibid…
[3] Ibid…
[4] Ibid…
[5] DN 31, Sigalovada Sutta: The Buddha's Advice to Sigalaka
[6] Sn 1.6, Parabhava Sutta: Discourse on Downfall
[7] Ven. K. Sri Dhammananda, “A Happy Married Life”
[8] Ibid…
[9] Ibid…
[10] The Threefold Lotus Sutra, 101

No comments:

Post a Comment

  • Người Phật tử làm gì với Covid-19 này?

    Người Phật tử làm gì với Covid-19 này?

    09/06/2020 - 0 Nhận xét

    Người Phật tử làm gì với Covid-19 này? Dịch…

  • धम्मपद Dhammapada VII. अरहन्तवग्गो Arahanta-vaggo

    धम्मपद Dhammapada VII. अरहन्तवग्गो Arahanta-vaggo

    08/07/2023 - 0 Nhận xét

    Kinh Pháp Cú, VII. Phẩm A-la-hán/法句經,…

  • Đạo Phật và Tình Dục

    Đạo Phật và Tình Dục

    01/10/2015 - 0 Nhận xét

    M. O'C. Walshe -Tịnh Quang chuyển ngữ Đây…

  • ỨNG DỤNG KINH TẾ PHẬT GIÁO TRONG CUỘC SỐNG

    ỨNG DỤNG KINH TẾ PHẬT GIÁO TRONG CUỘC SỐNG

    20/03/2017 - 0 Nhận xét

    Thích Nữ Tịnh Quang Như được biết, nền kinh tế…

--------------TRUYỆN NGẮN NỬA HỒN XUÂN

My photo
Garden Grove, CA, United States