Thời gian không có hình thái nhưng thời gian
cũng là hiện tượng. Các hiện tượng được xác lập bởi ý thức nên thời gian cũng
được cho là hiện hữu. Các nhà Triết học đương đại đều thống nhất quan điểm về
hai tính năng của thời gian: Thời gian vật lý (những hiện tượng xảy ra trong thế
giới tự nhiên) không qua sự tham dự của ý thức, và thời gian tâm lý (thời gian
của ý thức). Bergson (Triết gia ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo) cho rằng thời
gian phụ thuộc vào ý thức, nó chỉ tồn tại trong ký ức của chúng ta, thời gian
là sự vận hành và tạo tác chứ không gì khác (Time is invention and nothing
else_Henri Bergson).
Chúng ta sống trong thế giới của ý thức, hẳn
nhiên, thời gian được xác lập bởi ý thức. Trong các kinh văn Phật giáo, thời
gian được nhắc đến song song với các khái niệm đối với hiện tượng thay đổi. Hiện
tượng hằng chuyển (tạm gọi là vô thường) và tâm hành trên sự chuyển động của hiện
tượng đó, và ‘khổ’ coi như xuất hiện: “chấp trước (các hiện tượng) là gốc rễ của
khổ đau” (upadhi dukkhassa mūlanti_Majjhima Nikāya/Devadaha Vagga).
Phật giáo cho rằng nếu không có duyên khởi
(ngã+pháp), sẽ không có khái niệm về thời gian. Nhân duyên liên quan đến thời
gian chứng minh điều kiện không ổn định và hay thay đổi của sự vật (由假說我法有種種相轉_唯識三十頌); như thế, thời gian
không tồn tại riêng biệt với những điều kiện độc lập, thời gian chỉ là một khái
niệm được phát minh bởi ý thức từ việc cảm nhận quá trình trở thành của các
pháp.Từ kinh nghiệm của ý thức, chúng ta cho rằng có sự tồn tại của thời gian
thực sự. Theo Abhidhamma (Narada Maha Thera), thời gian là khi một ý thức (niệm)
của chúng ta sinh khởi đi qua ba giai đoạn, giai đoạn đầu tiên được gọi là sự
xuất hiện hoặc nguồn gốc (uppada), giai đoạn thứ hai là sự thay đổi hoặc phát
triển (thiti) và giai đoạn cuối cùng là chấm dứt hoặc giải thể (bhanga). Thời
gian là một ý thức được theo sau bởi một ý thức khác. Quá khứ đã biến mất;
tương lai vẫn chưa đến; ý thức, sự vật chưa bao giờ đứng yên nên không có quá
khứ, hiện tại và tương lai (过去心不可得 现在心不可得 未来心不可得_金刚经) ngoài sự tồn tại của khái niệm khoảnh khắc
thời gian, khoảnh khắc đang trở thành.
Như thế, khái niệm ở trên dòng chảy của thời
gian liên tục nên nó không thực thể. Con nước trước và con nước sau không phải
một. Chấp rằng khái niệm, quan điểm của ‘tôi’ hay dính tới ‘tôi’ là một nhận thức
sai lầm về thực tại thời gian; Phật nói: người chấp trước đối với tri giác và
quan điểm, là kẻ cứ lang thang trong thế gian mãi tạo nên những sai lầm.
(Saññaca diṭṭhiñca ye aggahesuṃ Te ghaṭṭayantā vicaranti loketi_ Magandiya
Sutta).Trên dòng chảy thời gian, nếu chúng ta không gán những tri giác và quan
điểm, những kinh nghiệm cá nhân tham gia, chỉ đứng bên ngoài ‘chiếu kiến’ hiện
tượng một cách khách quan, chúng ta mới có khả năng trải nghiệm trực tiếp với
thời lượng ở nơi trực quan sinh động liên tục của không gian. Nơi căn thân khí
giới, đối với thanh sắc, cảnh tướng mà không lầm chấp, phân biệt thì tất cả đều
là không hoa thủy nguyệt, sao có thể phiền não vì chúng (根身器界一切镜相,皆是空花水月,迷著计较,徒增烦恼_六祖神奇预言).
Thời gian tồn tại như một trật tự khi chúng
ta thấy năm tháng, chu kỳ sinh lão bệnh tử…như là thời gian thực hữu, nhưng cái
mà ta gọi là ‘hiện tại (món quà) ta có’ là ở trong quá khứ của ta và trong
tương lai của ta. Trong quá khứ của ta, bởi vì khoảnh khắc mà ta đang nói đã xa
ta (chuyển động); trong tương lai của ta, bởi vì khoảnh khắc này đang diễn ra
trong tương lai: đó là tương lai mà ta đang có, và ta có thể khắc phục hiện tại
không thể phân chia được; yếu tố vô cùng của đường cong samsara thời gian, đó
là hướng của tương lai nó sẽ chỉ ra. Như thế, thời gian mà chúng ta đang nói,
đang có thực sự nó không có ở bây giờ, nó là thể tính của quá khứ và đi về
tương lai, nên sự giải thoát thực sự chính là không trụ, không trụ ở hiện tượng,
không trụ ở ý thức mới có thể nhận ra được rằng vạn pháp vốn là thể tánh nhất
như (依 無住本,立一切法無住之本本乎無住,若能徹住則萬法一如_佛果園悟真覺禪師心要). Thể tánh
của thời gian là nhất như, như thế, không thể qua lăng kính ý thức vặn vẹo, chấp
trước, sở hữu, xác định đối với ba thời rồi phát sinh khổ lạc. Kinh ghi: “Ai đối
với quá khứ, hiện tại, và vị lai mà không đắm không chấp thì ta gọi là
Brahmin-Người cao thượng (yassa pure ca paccha ca majjhe ca natthi kibcanaj,
akibcanaj anadanaj tam ahaj brumi brahmanaj_DP 421).
Pháp giới được tạo nên bởi tư tưởng (应观法界性, 一切惟心造_華嚴經). Trong
pháp giới mà không khởi động niệm khi kiến sắc văn thinh, đó là người không bị
sự chi phối của thời gian. Khi ý thức được tập trung, thuần tịnh, sự trống rỗng
của ý niệm như cánh đồng quang đãng trong một đêm trăng sáng, chúng ta có thể
thấy rõ ánh trăng tâm vốn chưa hề bị tác động của trần cảnh và thời gian chi phối,
chỉ một vầng thanh tịnh (一切众生皆自空寂,真心无始,本来自性清净_禪源諸詮).
TNTQ
No comments:
Post a Comment