
Các nhà Thực nghiệm cho rằng
tất cả những ý tưởng mà một trí óc có thể thu nhập đã được hình thành thông qua
một số kinh nghiệm, những ấn tượng, hoặc (và) sử dụng những ngữ thuật từ các
giác quan.
Đây là cách David Hume bày tỏ tín ngưỡng này: "nó phải là một ấn tượng nào đó làm nảy sinh mọi ý tưởng thực sự. Tất cả những ý tưởng của chúng ta hay những nhận thức là những bản sao của những ấn tượng một cách sống động.”(A Treatise of Human Nature).
Đây là cách David Hume bày tỏ tín ngưỡng này: "nó phải là một ấn tượng nào đó làm nảy sinh mọi ý tưởng thực sự. Tất cả những ý tưởng của chúng ta hay những nhận thức là những bản sao của những ấn tượng một cách sống động.”(A Treatise of Human Nature).
Như thế Thực nghiệm là sự trải nghiệm được duy trì và dẫn đến sự hiểu biết.
Thiếu sự thực nghiệm sẽ ngăn cản người ta đạt được sự hiểu biết. John Locke nói
rằng, bạn không thể giải thích được hương vị của một trái dứa cho một người
chưa bao giờ nếm thử nó.
Có thể, chúng ta tiếp cận và nắm bắt về sự giống nhau của nó với những
trái cây khác bằng những ý tưởng in dấu trong bộ nhớ của chúng ta, và chỉ là ý
tưởng đơn giản, vẫn rất khác với hương vị của quả dứa. Như thế chúng ta không
bao giờ đạt được cảm giác hoặc trạng thái của nó như thế nào nếu không có sự thực
nghiệm.
Tuy nhiên, Thực nghiệm hay kinh nghiệm để đạt được sự hiểu biết qua năm
giác quan cũng chỉ là cái biết đi qua năm trần cảnh (đối tượng của năm giác
quan): sắc, thanh, hương, vị và xúc. Và khi chúng ta có sự trải nghiệm về cái
biết của năm trần cảnh (ngũ thức) là quá trình trừu tượng ý thức, nhúng ý tưởng
qua kinh nghiệm tiếp xúc ‘cụ thể’; đây cũng chỉ là khái niệm trừu tượng mà
chúng ta ngỡ là thực nghiệm sự hiểu biết thực tại.
Khi con mắt kinh nghiệm (trực xúc) với sắc ta có cái thấy màu sắc, hình
dáng…khác biệt, khi tai kinh nghiệm với tiềng ta có cái nghe về các tiếng…, và
khi mũi và các giác quan khác trải nghiệm đối với trần cảnh ta đều có sự hiểu
biết về chúng…Sự hiểu biết trên căn bản nhận thức phân biệt cho ra ba trạng
thái đặc trưng: khổ, vui, và vô cảm của ý thức.
Dù Thực nghiệm có thể nắm bắt ý tưởng cụ thể như ‘ngôi nhà’ hoặc ‘tam
giác’, nhưng khái niệm trừu tượng về thực tại là một quá trình phức tạp, như ý
tưởng về tình yêu, hôn nhân, và những khái niệm nhạy cảm khác, Thực nghiệm lại
trở nên lung túng và không chính xác. Thực nghiệm bắt nguồn từ bản ngã nên nảy
sinh ra sự khát ái cho nó, và năm giác quan giống như những mũi tên đã bị bôi tẩm
chất độc của tri tưởng về đối tượng… (saṃkalpaviṣadigdhā hi pañcendriyamayāḥ
śarāḥ…Saund_13.35), do vậy, cái nhìn về sự vật khách quan trở thành chủ quan của
nhận thức và sự đau khổ của ý thức xuất hiện.
Sự đau khổ thông qua tiến trình kinh nghiệm của năm giác quan bắt nguồn
từ ý thức chấp trước bản ngã làm thực tại, với sự vận hành tinh tế, không ngừng
chuyển động của nó đối với sự vật và tri tưởng được dẫn dắt bởi vô minh. Phật
nói, ý là vô thường…hành là vô thường…vô minh là vô thường, được chế tác bởi một
sự kết hợp của nhiều nguyên nhân, phát sinh trên căn bản của một nguyên nhân, một
sự tàn phá, một sự tổn giám, một sự băng hoại và một sự chấm dứt (Viññāṇaṃ…saṅkhārā
… Avijjā bhikkhave aniccā saṅkhatā paṭiccasamuppannā khayadhammā vayadhammā
virāgadhammā nirodhadhammā. ime vuccanti bhikkhave paṭiccasamuppannā dhammā./S.N.
Nidānavagga Paccayasutta). Trong sự chuyển động không ngừng của sự tàn phá và băng
hoại của vô thường từ ý, hành và vô minh xuyên qua năm căn, đâu là thực tại điều
động và chi phối các sự vận hành ấy? Thực tại là những gì không thể nắm bắt,
không phải là những lỗ hổng xuyên qua trần cảnh-những giác quan thu nạp từ bên
ngoài và sự vận hành tri tưởng về chúng. Vẫn ở trên năm giác quan đó, bằng Thực
nghiệm Như lai Ngũ nhãn (năm cái thấy không bị vận hành lui tới của ngoại cảnh
từ ý thức) thì tất cả ngoại sắc trần cảnh cho đến thiện ác…không có sự phân biệt
can dự; với tâm nhất như thì thấy Sắc là thanh tịnh (Nhục nhãn), thấy Thể vắng
lặng (Thiên nhãn), bên trong tự tại, không có mê chấp (Huệ nhãn), thấy không chỗ
thấy (Pháp nhãn), thấy không chấp ‘không chỗ thấy’ (Phật nhãn) ( 如来五眼:见色清净名为肉眼;见体清净名为天眼;与诸色境乃至善恶,悉能微 细分别,无所染着,于中自在,名为慧眼;见无所见名为 法眼;无见无无见名为佛眼 / 維摩詰所說經註疏). Như thế, khi những giác quan được vận hành trong sự tỉnh giác của Như
lai ngũ nhãn (hay dưới sự quan sát của nội tâm thanh tịnh), đối tượng năm trần
cảnh cũng là bản thể vắng lặng; chỉ vì chúng ta vừa thấy, nghe, tiếp xúc trần cảnh
thì sinh tâm xao động, nếu một niệm không sanh, đó là diện mục của thực tại (起见生心,分别执著便有情尘烦恼、扰攘、若以利根勇猛身心直下,修到一念不生之 处,即是本来面目/圆悟心要), là cái biết tối thượng.
Tất cả biến động đều bắt nguồn từ bên trong. Sự suy nghĩ của chúng ta
thường tương ứng với giác quan (đối tượng) của nó; ý thức phân biệt như những
chữ cái trên một bảng viết vốn chưa có chữ (What the mind (nous) thinks must be
in it in the same sense as letters are on a tablet (grammateion) which bears no
actual writing (grammenon); this is just what happens in the case of the mind/Aristotle,
On the Sou) Ý thức câu sinh với những quan năng phóng ngoại rồi lầm chấp cho đó
là thực ảnh. Phẩm chất của hiểu biết đi từ việc Thực nghiệm giác quan theo
nghĩa của nó đã thu hẹp thực tại sinh động. Tuệ tri là cái nhìn khách quan
(theo quan điểm Phật giáo) bắt nguồn từ sự quán chiếu sâu sắc các tâm hành, như
là phẩm chất vô phân biệt đối với các pháp. Yếu tố hiểu biết (giải thoát) là
chú ý là nhận thức rõ sự phát sinh của tâm khi nó phát sinh sự phân biệt: “Và
những gì là thực phẩm cho sự phát sinh những phẩm chất vô phân biệt như một yếu
tố cho sự tĩnh giác, hoặc cho sự tăng trưởng các phẩm chất ấy ... một khi nó đã
phát sinh? Có những phẩm chất tinh thần đó là thiện và bất thiện, đáng chê và
không đáng chê, thô và tế, cùng với bóng tối và ánh sáng. Để trợ thủ cho sự chú
ý tương ứng với chúng: Đây là thực phẩm cho sự phát sinh những phẩm chất vô
phân biệt như một yếu tố cho sự tĩnh giác, hoặc cho sự tăng trưởng các phẩm chất
ấy…một khi nó đã phát sinh là nhận rõ sự phân biệt ấy (Ko ca, bhikkhave,
aahaaro anuppannassa vaa dhammavicayasambojjha'ngassa uppaadaaya, uppannassa
vaa dhammavicayasambojjha'ngassa bhaavanaaya paaripuuriyaa? Atthi,
bhikkhave, kusalaakusalaa dhammaa saavajjaanavajjaa dhammaa hiinapa.niitaa
dhammaa ka.nhasukkasappa.tibhaagaa dhammaa. Tattha
yonisomanasikaarabahuliikaaro-ayamaahaaro anuppannassa vaa
dhammavicayasambojjha'ngassa uppaadaaya, uppannassa vaa
dhammavicayasambojjha'ngassa bhaavanaaya paaripuuriyaa/Ahara sutta).
Nhận rõ sự phát khởi của tâm trong tất cả tình huống là lập trường tu tập
của người học Phật, tu Phật. Thực nghiệm các giác quan của tự thân là thực nghiệm
độc lập khác với bất kỳ trải nghiệm cụ thể nào: thay vào đó, khả năng giác ngộ
không tùy thuộc vào chủ thể sở hữu ý tưởng về tự ngã. Khi những nhận thức phân
biệt của chúng ta bị loại bỏ dần dần, chúng ta có thể không cảm nhận nhiều đối
với bản thân mình, và thực sự có thể nói là cái ‘tôi’ độc lập không tồn tại; ta
sẽ chẳng còn thấy hay cảm thấy, chẳng yêu, chẳng ghét, chẳng có quan niệm điều
gì là cần thiết để làm cho ta trở nên hoàn hảo hay khác biệt, chẳng còn bất cứ
lý do gì về ta nữa, và tất cả không còn gì để nhớ để lưu (一切不留,无可记忆/六祖坛经注解无相颂偈) khi tất cả mọi thứ tồn tại trong cuộc sống và trong suy nghĩ của chúng
ta là một ảo ảnh đã được thấy.
Thực nghiệm bằng sự quan sát và nhận rõ các đối tượng băng qua tâm thức,
như thế rõ biết mà không trụ, đó là tu hành; không trụ mà biết rõ tức là Pháp vị
(知心无住,即是修行,无住而知,即为法昧/ 知儒編), sự trải nghiệm Pháp tính
của thực tại, nội tại một cách yên lắng. Khi ý thức lắng dịu, không còn thao thức
với ngoại tại, tri tưởng như mây ngự trên tầng cao ung dung với muôn vạn hình
thái, dưới vách đá xưa, hoa cứ nở rồi tàn.
TNTQ
No comments:
Post a Comment