
Đại Trí Đô luận (quyển 37) nói: Người vào
Pháp vị này, không còn đọa vào hạng phàm phu, thì gọi là người đắc đạo, tất cả
vọng tình thế gian muốn hoại tâm kia, nhưng không thể khiến
tâm kia động được. Người đắc đạo đã đóng cánh cửa tam ác thú, nhập vào hàng Bồ
tát. Danh xưng Thành Phật, đắc đạo tức là ý nghĩa
thành Phật đạo, làm Phật, đắc đạo, thành Chánh giác, là một trong tám tướng.
Nghĩa
là Bồ tát hoàn thành việc tu hành, thành tựu Phật quả.
Vậy hàng Bồ tát thành tựu Phật quả trải
qua quá trình như thế nào?
“BỒ
TÁT SỞ TU ĐẠO, TAM KỲ LỊCH THẬP ĐỊA, ĐỐN NHẬP DỮ TIỆM NHẬP, TÙY CƠ HỮU SAI BIỆT.”
Pháp tu đạo của hàng Bồ tát là phát Bồ đề
tâm, tu Bồ tát giới, lục độ, tứ nhiếp. Thời gian Bồ tát tu hạnh là ba đại A
tăng kiếp,
trải qua hạnh vị, chứng nhập Pháp giới tánh.
Ở Bồ
tát vị, Bồ tát tu Vô sanh pháp nhẫn, đắc pháp nhẫn này, quán tất cả thế
gian bằng tâm Không, tâm không chấp trước, trụ trong thật tướng các pháp, không
còn tâm nhiễm thế gian. Lại nữa, ở Bồ tát vị đắc Bàn châu
bàn Tam muội, đều thấy rõ mười phương chư Phật hiện tại,
từ chư Phật nghe pháp, đoạn các nghi ngờ, là lúc Bồ đề
tâm không lay động thì gọi là Bồ tát vị. Và Bồ tát vị là thực hành đủ sáu Ba la
mật, sinh Phương tiện trí, đối với thực tướng của các pháp cũng không trụ, tự
tri tự chứng, không theo người khác.
Theo định luận Thanh
văn Phật giáo, Bồ tát tu hành ba đại A tăng kỳ kiếp, nhưng theo kinh Đại thừa
thì không nhất định. Khởi Tín Luận cho rằng: Kinh nói không giống nhau là nói
theo phương tiện, từ tín tâm thành tựu đến thành Phật, kỳ thật phải trải qua ba
đại A tăng kỳ kiếp (1). Nhưng Kiến địa ở trong Long Thọ Luận thì không đồng:
Thành Phật hoặc nhanh hoặc chậm, chậm thì cần phải vô lượng vô số A tăng kỳ kiếp!
cho đến cuối cùng thành Phật.
Có hai loại Giải thoát ở Ba đại A tăng kỳ kiếp:
1. Thời gian kiếp: Kinh qua ba
đại A tăng kỳ kiếp tu hành mới viên mãn thành Phật
2. Đức hạnh kiếp: Trải qua kiếp
số công viên quả mãn, thời gian nhanh chậm còn tùy.
Theo Công đức mà tính
(2),
ở ba đại A tăng kỳ kiếp, tất cả Bồ
tát tu hành thành Phật đều giống nhau. Nếu nói theo thuyết thời gian thì bất
tương đồng. Theo luận ý Long Thọ, như Đức Phật Thích Ca là trải qua ba đại A
tăng kỳ kiếp, thời gian rất lâu; nhưng người lợi căn đặc biệt thì không cần lâu
như thế, đốn-tiệm còn tùy theo căn cơ của hàng Bồ tát
Y theo Long Thọ Bồ tát phân
tích (Vãng Sanh phẩm):
1. Phước
mỏng, căn độn, tâm không kiên cố – phát tâm tu hành vô lượng A tăng kỳ kiếp
hoặc thành hoặc không thành.
2. Ít phước đức nhưng lợi căn – phát tâm tiệm hành lục độ hoặc ba
đại A tăng kỳ kiếp thành Phật.
3. Phước lớn, lợi căn, tâm kiên cố: Phát tâm vào Bồ tát vị…….(Đảnh
vị)
a. Phát tâm tiểu trụ nhập Bồ tát vị… (Đảnh vị)
b .Phát tâm thành Phật chuyển Pháp luân…(Sơ địa)
c. Phát tâm Bát nhã tương ưng thành thục chúng sanh trang nghiêm
Phật độ… (Địa thượng)
A.
Như xe dê mà hành, kể từ khi phát tâm, thời gian rất là lâu, cũng có thể là
không đến
được. Như nói (3): “Bồ tát phát đại tâm, bông xoài và trứng cá, ba điều
này rất hiếm, thành quả thời rất ít.” Ở đây muốn đề
cập đến
căn tánh.
B.
Như xe ngựa (hay xe voi) mà hành, kinh nói: Như xe ngựa mà tu tập, hoặc tu ba đại
A tăng kỳ kiếp, hoặc là trăm đại A tăng kỳ kiếp,
mới có thể đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
C.
Như nương thần thông hành, ở đây có 3 loại: 1/Kinh nói như nương nhật nguyệt thần
thông mà hành: Long Thọ lại phân làm 3 loại: Sơ phát tâm tu hành là ở Bồ tát vị,
Bồ tát vị tuy có nhiều sự giải thuyết,
tuy nhiên theo kinh Bát nhã là ở Đảnh vị-không còn đọa vào ác đạo, vào nhà hạ
tiện. Qua khỏi Nhị thừa địa là Phát tâm trụ, Hạnh vị này theo kinh Hoa Nghiêm.
Hai là kinh nói ở nơi Thanh văn thần thông hành: Sơ phát tâm tựu thành Đại bồ đề,
tám tướng thành đạo (Sơ địa phần chứng, có thể ở nơi trăm thế
giới Phật, hiện thân Bát tướng thành đạo). Ba là kinh nói ở nơi Như lai thần
thông hành: Sơ phát tâm là tương ưng Bát nhã, thành thục chúng sanh, trang
nghiêm Phật độ; đây là Phương tiện đạo Bồ tát, từ Sơ địa đến
Bát địa. Như thế từ Sơ phát tâm đến
Viên mãn thành Phật, bất luận như thế nào, vừa phát tâm là vào Sơ địa, chứng
Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, có nghĩa là ở vị cao hơn, ngay nơi Sơ phát tâm
thì tự lợi viên mãn, và dùng phương tiện dẫn dắt chúng sanh. Loại thứ hai hoặc
tu ba đại A tăng kỳ kiếp, viên mãn bồ đề
là tiệm cơ, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật là ở căn cơ này. Loại thứ ba lợi căn, đốn
nhập, chỉ là hy hữu khó đắc.
Căn cơ có tiệm có đốn, thành Phật có nhanh
có chậm như thế nào? Vấn đề là sự chuẩn bị không giống nhau đối với
sự phát tâm. Một là “đời trước phước đức nhân duyên ít mà lại độn căn, tâm
không kiên cố.” (4) Vì tâm không có lập trường kiên cố, cho dù thời gian có lâu
nhưng không đạt được mục đích; như thế từ khi phát tâm về
sau không chịu tu học, giống như phát tâm đi học mà không chịu tới trường. Hai
là “đời trước ít có phước đức nhưng lợi căn (5), khác biệt ở chỗ tu học, ở
trong sự nỗ lực trường kỳ, kinh nghiệm phong phú, mỗi năm ứng khảo, có cơ hội dự
vào Thánh vị. Ba là: “Đã từng nhiều đời, hảo tâm chân thật, đoạn trừ điều
ác, là lợi căn Bồ tát với tâm kiên cố, huân tập vô lượng phước đức trí tuệ.”
(6) Đây là vừa Sơ phát bồ đề tâm thì có thể trực đăng cao vị, như
người học vấn cao, nghiên cứu sâu, trong một lần thi liền
thành Phật.
Vậy chúng ta tự hỏi mình học Phật như thế
nào? Là luôn luôn tự hỏi mình, tự khảo nghiệm mình, xem phước đức nhân duyên của
mình như thế nào, chất lượng trí tuệ ra sao? Phát tâm học Phật mà
không đốn nhập thì không thể. Tự hỏi sự phát tâm của chính mình và cách tu của
mình mới có thể là đại pháp giác ngộ, đối với pháp môn như thế
mới dễ thành Phật. Thừa nhận tự mình độn căn, nghiệp nặng, trí tuệ kém thì
không thể tu tập pháp môn thành Phật với suy nghĩ
như thế,
không tương ưng với chánh pháp. Người khởi tưởng chơn chánh phát tâm học Phật,
huân tập chất lượng tạo thành lợi căn, tâm chí kiên cố- tinh tấn tu học, không
cần hỏi bao lâu thành Phật, chỉ cần tu niệm mới là chánh đạo Bồ tát.
“TAM
TĂNG KỲ KIẾP MÃN, ĐĂNG Ư DIỆU GIÁC ĐỊA.”
Tu hành đến ba A tăng kỳ kiếp
công đức viên mãn đều từ Bồ tát địa mà lên (đăng) Diệu giác
địa – thành Phật. Phật là đại giác ngộ, xưng là ‘Vô thượng chánh đẳng chánh
giác’, Chánh cũng dịch là Diệu, cho nên Phật quả là Đẳng giác hay Diệu giác. Từ
Sơ địa lên Bát địa, Bồ tát đã đọan trừ Phiền não chướng ba cõi, và tập khí - sở tri
chướng từ Sơ địa trở lên, đến Bát địa mỗi phần đều
đã tiêu trừ. Theo tâm cảnh mà nói thì tập khí đều hiển thị ở tướng hí
luận, đối với pháp không thể đắc Vô ngại tri kiến vì mang nghĩa
ngu muội. Cũng nhân vì phiền não tập khí phiền
não từ vô thỉ, phiền não chướng tuy đã đoạn nhưng khí tức
(hiện khởi vi tế) lại còn; những tập khí này Thanh Văn gọi
là “Bất nhiễm ô vô tri”, Đại thừa là vô minh nhiễm ô ‘Trụ địa’.
Vô minh được chia làm 2: nhiễm ô và bất
nhiễm ô, như 阿毘曇毘婆沙論 (quyển 37) nói: “Nếu
đoạn hẳn hai loại vô tri (nhiễm ô và bất nhiễm ô) thì gọi là Phật.Thanh Văn và
Bích chi Phật chỉ đoạn nhiễm ô vô tri. Trong A Hàm và Tỳ Ni nói: Bậc A la hán
đã đoạn phiền não, duy chỉ có tập khí là chưa đoạn. Tập khí này tức
Trụ địa. La hán chưa đoạn tập khí, Bích chi Phật còn chút tập khí, chỉ có Phật
đã đoạn tận hết thảy phiền não và tập khí. Nhị thừa tập khí chưa
đoạn; trong học phái Thanh văn gọi là Bất nhiễm ô vô tri, vô tri là biệt danh của
vô minh; tập khí là vô minh cực vi tế, ở đây cùng đồng quan điểm Vô minh trụ
địa của Đại thừa. Long Thọ viết: “Tập khí Thanh văn Bích chi Phật, với
hàng Bồ tát là phiền não” (聲聞辟支佛習氣,於菩薩為煩惱).
Các học giả Thanh văn cho tập khí là không nhiễm ô, vô ngại đối với sanh tử;
tuy nhiên, Các học giả Đại thừa cho rằng tập khí là nhiễm ô vi tế,
vẫn còn chiêu cảm Biến dịch sanh tử. Nhị thừa chưa đoạn, chỉ
có Phật mới đoạn tận vô minh. Các học giả Đại thừa nói, Bồ tát ở trong sự tu
hành, đã từng phần tiệm trừ, Phật thì đoạn hết vô minh rốt ráo.
Bồ tát ở nơi tập khí vô minh nhiễm ô ‘Trụ
địa’, nhờ tiến
tu Vô tướng trí, đạt đến Bất hiện, dần dần tiêu trừ, tu pháp
không tính cũng khiến cho tâm càng trở nên minh tịnh, đưa đến
thanh tịnh rốt ráo, trí huệ có năng lực khiến cho quảng đại, tiêu mòn nhiễm ô vi tế,
đạt đến
tất cả rốt ráo, đã đối trị hết “với tất cả Sở tri chướng, nhiễm trước
ngu si rất vi tế” và “ chướng ngại ngu si rất vi tế
và thô trọng kia”, (7) như thế mới cứu cánh viên mãn thành Phật: “Khi
đã không còn chướng (ngăn che) thì tất cả tướng không hiển hiện, toàn là thanh
tịnh chân thật hiển hiện (8), đây cũng gọi là ‘tối thanh tịnh pháp giới’ hiển
hiện. Kinh Bát nhã nói, “Nhất niệm tương ưng diệu huệ, đoạn tất cả phiền
não tập khí mà thành Phật” (9). Phát tâm tu học đến đây, mới thật đúng
là Công đức viên mãn.
Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề
qua 49 ngày đêm tham thiền nhập định và chứng đắc Tam minh, Lục
thông, hoàn toàn giải thoát phiền não vi tế, chứng Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, thành Phật là hiện tướng Công đức thành tựu. Theo kinh tạng,
Ngài đã trải qua ba Đại a tăng kỳ kiếp tiệm tu, công huân quả mãn mới Thành Đạo.
Chúng ta ngày nay cũng đang trên đường tiệm tu, nhưng việc thành Phật Đắc đạo
còn tùy ở công hạnh tu hành, sự tinh tấn…cùng với thời gian được đo bằng ‘vô lượng’
kiếp
số nữa. Nếu khi chúng ta nhận ra, hay sống với tâm ‘vô lượng’
thì kiếp
số sẽ không còn là vấn đề; và chúng ta có thể làm Phật, đắc đạo
trong những khoảnh khắc yên tĩnh nhất.
Thich
nữ Tịnh Quang
Tham khảo:
菩薩所修道
https://yinshun-edu.org
1.大乘起信論(「大正」卷三二.五八一頁中)
2.導師於《成佛之道(增註本的「三事」,係引用《大智度論》卷4(如下):
3.《大智度論》卷4〈1序品〉:帝釋以偈答曰:「菩薩發大心,魚子菴樹華,三事因時多,成果時甚少!」
4.大智度論》卷三五(「大正」卷二五.三四二頁下)。
5.Sđd。
6.Sđd。
7.解深密經》卷四(「大正」卷一六.七0四頁中──下)。
8.攝大乘論本》卷下(「大正」卷三一.一四八頁下)。
9.《大般若波羅蜜多經》卷三七二(「大正」卷六.九一九頁中)。
No comments:
Post a Comment