Khái niệm và suy nghĩ về cái chết là đặc trưng của con người. Niết-bàn (nirvāṇa/निर्वाण) là khái niệm ‘chết’ theo quan điểm Phật giáo. Tư duy về cái chết là định hướng cho hiện tại và tương lai; tuy nhiên, nhận thức về cái chết, mỗi người đều có những cách suy nghĩ được định hình từ niềm tin, truyền thống… với những đặc thù tương đồng và sai biệt.
Chết chỉ là sự kết thúc của sự sống. Thực tế, không có ai là chuyên gia về trạng thái chết, chẳng có ai biết về cái chết. Chúng ta chỉ suy nghĩ về cái chết và nói về cái chết mà thôi. Khái niệm, suy nghĩ về cái chết có thể đem lại lợi ích cho người sống với niềm tin và đạo đức là điều cần phải.
Chết có thật hay không thật? Nếu cái chết là có thật, sự kết thúc của cuộc sống là bức tường trống rỗng, sự chấm dứt hoàn toàn (theo khoa học hiện tượng). Nếu cái chết không thật, thì sự kết thúc của cuộc sống của một người không phải là cái chết thực sự, mà chỉ là tiến trình thay đổi cuộc sống, là cánh cửa, nấc thang bước sang cuộc sống khác. Tất cả những quan điểm đối với cái chết phản ảnh cuộc sống của chính chúng ta, khi chúng ta cho rằng chết là ‘có thực’, chúng ta nghi ngờ về hiện hữu và nỗi sợ hãi về tử thần, và điều này có thể khiến chúng ta nhận thức về đời sống qua lăng kính méo mó. Với một người cho rằng cái chết là không thật, cái chết chỉ là dấu chấm hết cho tương lai, cho một giai đoạn sống, và như thế, người ấy tin rằng mình không có cái chết vĩnh viễn. Cái chết không phải là một kinh nghiệm của người sống, nó chỉ được mô tả với người còn sống.
Với niềm tin của hầu hết Tôn giáo, theo quan điểm siêu hình, cái chết là không thật, bởi vì đằng sau cái chết có nhiều cánh cửa để chúng ta bước ‘lên’ (thiên đàng) hay bước ‘xuống’ (địa ngục)... Sau khi chết con người vẫn còn một linh hồn hay tâm thức (của tất cả chúng sanh), linh hồn hay tâm thức ấy bước ra khỏi thân xác và chịu trách nhiệm với tư duy, suy nghĩ, hành động của thân xác trước kia, và tiếp tục đi theo ‘nghiệp’ của tư duy và hành động của cái thân chết rồi (?) Và linh hồn này là một, là hai, là đồng nhất, là tách biệt, là giống, là khác hoặc là vừa giống vừa khác với thân xác trước? là tính đực, tính cái, hay là trung tính? Đây gọi là niềm tin theo quan điểm của Tôn giáo, niềm tin của người sống đối với cái chết. Có chăng sự tồn tại của một linh hồn phi vật chất, không phải là con người? Một con người (chúng sanh) là một thực thể sinh học, tâm lý, là kết cấu của nhân duyên tích hợp, không có chủ thể duy nhất.
Cái chết hiện thực nhiều trong suy tư của những người thao thức với ý nghĩa cuộc sống. Cái nhìn về cuộc sống của người trẻ khác với người già, người xuất gia có cái nhìn về cuộc sống khác với người tại gia, người không gia đình có cái nhìn khác với người có gia đình… Người có trí tuệ thực sự thì hòa tan mình trong cuộc sống để mà sống, không suy nghĩ về cái chết.
Socrates cho rằng cái chết giống như một giấc ngủ say không còn mộng (một giấc ngủ sảng khoái). Theo Phật giáo, bổn nguyên của vạn hữu vốn bất sinh bất diệt, con người vì ‘mộng’ nên thấy có sống và chết; quá khứ và tương lai vốn không thật, và Đức Phật thường khuyên chúng ta hãy an trú hiện tại. Nếu tương lai không thật (ảo), tại sao chúng ta lại lo sợ về cái chết? Và nếu hiểu rằng quá khứ chỉ là ‘tưởng’, khi vừa chết chúng ta đã trở thành quá khứ rồi. Thời gian không phải là tuyến tính, nó chỉ là vòng tròn, vòng tròn vô tận và những sinh thức lăn mãi theo vòng tròn, khi một sinh thức tung khỏi vòng tròn ấy thì được gọi là kết thúc sự tương tục.
Kinh Phật thường diễn tả cái ‘chết’ là một sự giải thoát hay còn gọi là đạt đến Niết-bàn (nirvāṇa): ngọn lửa đã tắt, đó là cái ‘chết’ của tâm chấp ngã, tham ái, dục vọng trần gian…, khi những ngọn lửa đau khổ, phiền não của suy nghĩ đã tắt rồi thì được gọi là người đạt đạo, chứng đắc Niết-bàn đầu tiên: Hữu dư y niết bàn (Sa upādisesanibbāna)-trạng thái vắng lặng của tâm; và người này sau khi chết gọi là đạt đến Vô dư y niết bàn (Anupādisesanibbāna)-không còn chịu khổ của thân, đã hoàn toàn giải thoát sự luân chuyển hay luân hồi (saṃsāra), nên Vô dư y niết bàn còn gọi là Viên tịch: Sự vắng lặng hoàn toàn.
Một lần, có người hỏi Đức Phật về cảnh giới Niết-bàn (vô dư) sau khi Ngài mất, Ngài chỉ trả lời “dầu hết thì lửa tắt, hay củi hết thì lửa tắt (anaharo nibbayati)”. Một số người vẫn không chịu hiểu sự thực ‘tàn khốc’này, và để trả lời cho ‘rõ ràng’ hơn Ngài nói về Vô trụ xứ niết bàn (apratiṣṭhita) sau đó, bởi đã ‘chết’ thì ‘thân’ đâu mà trụ, xứ nào cho ngọn lửa đã tắt, chết rồi thì còn gì để nói. Với sự thực ‘không’ này sẽ dễ tạo nên sự hốt hoảng và lo sợ cho con người, đó là tại sao kinh điển thường xoay quanh Tánh tịnh niết bàn (Upasamānussati) hầu giúp người an tịnh tâm ý, đừng suy nghĩ về quá khứ hay tương lai. Chết hay sống cũng là giả duyên mà thôi. Tất cả Pháp mà Đức Phật nói về trạng thái sau khi chết chỉ là ‘phưong tiện’- giả thuyết.
Phật giáo không có giáo lý về sự luân chuyển tái sinh từ một linh hồn bất biến. Trong Phật giáo, con người không phải là một linh hồn đầu thai như trong Ấn Độ giáo mà là một dòng chảy liên tục của các trạng thái – các pháp là một chuỗi của các ảnh hiện, đó là khoảnh khắc.
TNTQ
No comments:
Post a Comment